Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 3

TIẾNG TRU

Chắc chắn là một thằng khác trong đám đã truyền đi tin tức về Dagbert, chứ bảo đảm không phải Bragger. Sợ mất hồn vía đến nỗi bổ ngửa ra sàn chẳng có gì hay ho mà khoe khoang cả.

Lời đồn đại lan nhanh như chớp. Loáng cái thậm chí cả đứa năm nhất lơ mơ nhất cũng đã biết tin: Dagbert Endless dìm chết người.

Nhưng dìm bằng cách nào? Câu hỏi đó lướng vướng trong tâm trí mọi người. Vô nhà tắm buổi tối, thật dễ nhận thấy bọn nhỏ hứng nước vào bồn cạn như thế nào. Có đứa quyết định không tắm bồn nữa và chọn tắm vòi sen lạnh ngắt trong những phòng thay đồ không được sưởi ấm. Mà là vào tháng hai. Vậy đủ biết chúng lo sợ tới cỡ nào.

“Chúng mày bị ma quỷ gì ám vậy?” Bà giám thị gầm gừ. “Bọn bay hay kêu rêu là không đủ nước tắm cơ mà. Giờ, tự nhiên đứa nào cũng dửng dưng, chỉ lấy nước hầu như không đủ rửa đầu gối là sao.”

Mọi người bắt đầu lảng tránh Charlie bởi vì Dagbert luôn luôn cặp kè bên cạnh nó. Trong những trò chơi đồng đội, Charlie luôn là đứa cuối cùng được chọn, cứ như thằng mới đến vĩnh viễn dính vào Charlie, và đứa nào chọn Charlie về phe mình tức là phải gánh trách nhiệm về Dagbert-dìm-chết-người luôn.

Dĩ nhiên cũng có ngoại lệ. Người ta không thể dứt lìa Joshua, Dorcas, hai chị em sinh đôi ra khỏi Dagbert. Vì vậy Charlie đành phải đi chung đám với bọn nó. Việc này khiến nó mệt phờ vì cứ phải nghe bọn chúng bốc phét về những phép kỳ tài của mình. Tuy nhiên, nó cũng ráng xoay xở để biết được điều hữu ích.

Bọn chúng đang ngồi trong phòng Nhà Vua, chờ giờ bài tập về nhà bắt đầu. Lysander và Tancred chưa tới, Billy đang bận kiếm một cuốn sách tham khảo, Emma tới trễ, còn Gabriel nằm trạm xá dưỡng bệnh sốt siêu vi.

Charlie đã mở sách lịch sử ra, giả bộ ghi chú về cuộc chiến giành Độc Lập của Mỹ. Tiếng rù rì bàn đối diện được giữ ở mức thầm thì, thỉnh thoảng xen tiếng cười hinh hích của Dorcas. Và rồi, tình cờ, Charlie nghe lỏm: “Bà ấy dạy tao mọi chiêu về ếm bùa quần áo.”

Dorcas đang tám về bà cô Venetia của Charlie. Charlie liền hạ thấp đầu xuống và mở banh tai ra nghe ngóng.

“Với lại bà ấy đã kể cho tao nghe về lão. Bà ấy muốn lấy lão là vì, thứ nhất, lão giàu có, và thứ nữa, thằng con út của lão được ban phép thuật – chí ít bà Venetia nghĩ nó là...” Dorcas im bặt và Charlie cảm thấy mắt con nhỏ găm vào mình. Nó vẫn cúi thấp, nhưng Dorcas nói tiếp khẽ đến độ nó chỉ nghe bập bõm được vài từ lạ lùng. Như là “Arthur Shellhorn, thuốc độc, chuỗi hạt, suy tim... cỏ mê lú... đám cưới...”

Thật dễ đoán nội dung còn lại, và Charlie chẳng cần lâu mới suy ra bà cô mình đã làm gì. Ông cậu Paton đã cảnh báo nó bà cô Venetia không ngại làm kẻ sát nhân, và ông nói đúng. Mụ đã đầu độc vợ của Arthur Shellhorn bằng một xâu chuỗi khiến tim bà ngừng đập, xong mụ xông cỏ mê vào áo khoác của Arthur. Và Arthur tội nghiệp bị lừa phỉnh đã nài nỉ bà cô Venetia cưới mình.

Đến đây thì Lysander và Tancred lướt vô, anh bão tố trông còn xúc động hơn thường lệ.

“Xin lỗi chúng tôi trễ,” Lysander nói. “Chúng tôi đã bận họp. Rất vui thấy các bạn tự giác với công việc của mình. Billy đâu?”

“Đây. Em đây.” Billy lệt bệt tuôn qua cửa, với Emma theo sau vài bước.

Im lặng rớt độp xuống. Tất cả cúi xuống sách vở của mình. Giờ bài tập về nhà bắt đầu.

Charlie giương mắt dòm những trang giáo khoa lịch sử mà chẳng thấy gì. Đầu óc nó lang bang tận đẩu tận đâu. Nó đang cố tưởng tượng xem có một bà mẹ kế như bà cô Venetia thì thế nào: kẻ đầu độc, phù thủy, tên sát nhân. Nó nóng lòng gặp Ông cậu Paton quá đi mất. Còn những một đêm nữa, nó nghĩ, khi đó nó sẽ thoát khỏi Dagbert Endless. Nó sẽ ngồi ở nhà, ăn bữa tối mê ly của ngoại Maisie.

Nhưng mà không được thế.

Vào đêm thứ Năm, chỉ năm phút sau khi đèn tắt, Dagbert quyết định kể chuyện giờ đi ngủ.

“Nói chuyện sau khi đèn tắt là vi phạm nội quy,” tiếng thì thầm nhắc nhở của Charlie chẳng xi nhê gì với Dagbert, cho nên nó nâng tiếng thì thầm lên một nấc nữa. “Cậu sẽ bị cấm túc.”

“Ai bảo?” Dagbert cãi lại.

“Cứ để nó kể đi,” Bragger hăng hái từ phía bên phải Dagbert.

“Ừ, để nó kể đi,” Rupe the thé. “Mày là đồ phá bĩnh, Charlie Bone.”

Fidelio làu bàu. “Rồi mày sẽ không thấy tiệm bán cá của mày vào đêm thứ Sáu đâu, Bertie(1).”

((1)Bertie là tên thường đặt cho chó và ngựa và là tên con gái. Fidelio gọi Dagbert là Bertie có hàm ý khinh miệt.)

“Muốn cược không?” Dagbert cười khẩy. “Với lại đừng gọi tôi là Bertie.”

Fidelio lật sấp người xuống và vỗ cho gối của mình phồng lại.

Gân cổ lên, Dagbert tiếp tục câu chuyện của nó. Một câu chuyện vừa dở vừa được kể tệ. Đương nhiên chả có gì buồn cười mặc dù Rupe và Bragger cứ cười khục khịch. Chuyện về người cá luôn khiến Charlie ngáp. Nó ngáp thật và nhắm mắt lại.

Hai giây sau, cửa bật mở tung và bà giám thị rầm rập bước vô phòng. Bà ta bật đèn lên. Charlie mở choàng mắt ra, chớp chớp.

“Ai đang nói?” Bà giám thị hạch hỏi.

“Cháu,” Dagbert mau mắn lên tiếng. “Cháu đang kể chuyện.”

“Mi phạm luật,” bà giám thị nói.

“Cháu á?” Dagbert làm bộ hoài nghi. “Xin lỗi. Cháu thành thật không biết.”

Bà giám thị thở hắt ra bực bội. “Charlie, mày chịu trách nhiệm cậu bé mới đến này. Mày có nhiệm vụ phải bảo cho nó biết luật chứ.”

“Có, ơ, cháu có nói...” Charlie mở miệng.

“Phạt mày cấm túc,” bà cô nạt nộ. “Đến thứ Bảy mày mới được về nhà.”

“Nhưng cháu đã nhắc nó rồi,” Charlie phản đối.

Bà giám thị tắt đèn đi và lộc cộc bước ra, đóng sầm cửa lại sau lưng.

Bầu thinh lặng bị phá vỡ bởi tiếng ngáy của Bragger và tiếng cười khẩy của Rupe.

Charlie nằm ngửa, nhìn chòng chọc vào bóng tối. Nó tự nhủ mình cóc quan tâm. Chẳng qua chỉ là thêm một ngày nữa? Nó nằm thức mãi đến hơn nửa đêm và rồi, khi nó vừa thiu thiu ngủ, một âm thanh cắt phăng màn đêm. Một tiếng tru đằng xa, rất xa.

Có tiếng khăn trải giường sột soạt và Charlie thấy hình thù tròn tròn của cái đầu trắng của Billy Raven. Thằng bé đang ngồi dậy, lắng nghe. Nó hiểu tiếng tru đó nói gì, Charlie nghĩ, không lâu nữa nó sẽ nói cho mình biết.

Điều cuối cùng trên đời Charlie có thể ngờ là một lời xin lỗi. Ấy thế mà sáng hôm sau, trong bữa sáng, một lời xin lỗi là thứ nó đã nhận được.

“Xin lỗi chuyện đêm qua,” Dagbert nói, nuốt ực một muỗng cháo bột ngô. “Bị cấm túc thì tôi không thể nào chịu được. Những người tôi sống chung sẽ không hiểu nếu tối nay tôi không về.”

“Nhưng cậu đâu cần phải nói chuyện sau khi đèn tắt phải không?” Fidelio trách móc. “Charlie đã nhắc cậu rồi mà.”

Dagbert nhăn mặt, lầu bầu. “Thật khó nhịn.”

Charlie hơi hơi thông cảm cho nó. “Hừm, cậu sẽ không thoát lần thứ hai đâu. Giờ thì chính bà giám thị đã cảnh cáo cậu rồi, cho nên cậu liệu hồn mà kiềm giữ những câu chuyện của cậu lại.”

“Được,” Dagbert nghiêm nghị. “Tưởng tượng. Những câu chuyện trong chai.”

Không phải lần đầu tiên Charlie tự hỏi thật ra trong đầu Dagbert đang nghĩ gì.

Suốt thời gian còn lại trong ngày Charlie rơi vào trạng thái lơ lơ lửng lửng. Tâm trí nó chỉ nôn nóng muốn nghe xem Billy phải nói gì với mình. Chứ việc nó phải ở lại trường một đêm nữa có gì mà quan trọng?

Vào lúc 4 giờ, lão Weedon mở khóa cổng chính và bọn trẻ xô đẩy nhau ra khỏi học viện. Từ phòng ngủ chung, Charlie và Billy có thể nghe thấy tiếng bọn học trò reo mừng khi vừa được giải phóng khỏi tòa nhà âm u. Charlie dòm qua cửa sổ xuống mảnh sân gạch. Thấy Dagbert Endless đi theo đám đông. Thằng bé là đứa duy nhất không thét rầm lên vui sướng. Mặt nó nghiêm trang, gần như là e sợ. Nó là đứa cuối cùng rời khỏi sân.

Charlie quay đi khỏi cửa sổ. “Tất cả về hết rồi, Billy.”

Billy đang ngồi trên giường của nó, đầu gối thu lên tới tận cằm.

“Trước khi tụi mình nói về Dagbert anh muốn biết em đã nghe thấy gì đêm qua,” Charlie hỏi.

“Một tiếng sói tru,” Billy đáp.

“Anh cũng nghe thấy. Em có biết nó có nghĩa gì không?”

Billy lắc đầu, thụp vai xuống, tự ôm chặt lấy người. “Đó là một tiếng kêu cứu. Nó sợ hãi và cô đơn.”

Charlie nhìn vào đôi mắt to màu rượu vang, được phóng đại bởi cặp mắt kính tròn của Billy. “Em có biết tiếng đó... tiếng tru đó... từ đâu không?”

“Không biết đích xác. Nó ở xa, xa lắm, có lẽ ở dưới lòng đất. Nó nói nó bị mắc kẹt.”

“Mắc kẹt?” Charlie nói. “Ai đã nhốt nó? Anh tự hỏi.”

Billy nhún vai. “Charlie, em muốn nói với anh về Dagbert. Suốt tuần em đã cố nói, nhưng nó cứ đeo sát anh. Nó gọi em là đồ dị dạng.”

“Nó bảo Gabriel là kẻ thất bại, còn Olivia và Emma thì lôi thôi lếch thếch. Láo.”

Billy chồm tới trước. “Bà bếp trưởng biết cha của Dagbert. Hắn đã dìm chết cha mẹ của bà, quét trôi nhà bà và giết chồng sắp cưới của bà. Tất cả vì bà không cưới hắn.”

“Chờ một phút!” Charlie thốt lên. “Anh nhớ rồi. Bà bếp trưởng cũng đã kể cho anh nghe. Tên hắn là Lord Grimwald.”

“Đúng, Lord Grimwald. May Phúc nói hắn bốc mùi cá tanh, tảo biển, mảnh tàu đắm và người chết đuối. Trong tim hắn có một hạt trai lạnh lẽo, kiểu như hạt cát mắc kẹt trong con trai. Bà bếp trưởng sẽ ra đi. Bà ấy sợ.”

Charlie rớt bịch xuống sàn. “Hả, bà bếp trưởng đi? Không thể nào. Bà ấy là đá nam châm. Bà ấy giữ cân bằng cho nơi này mà. Sao bà phải đi? Đâu ai biết bà là ai.”

“Rất có thể Dagbert sẽ đoán ra,” Billy nói cứng.

Charlie kiên quyết làm bà bếp trưởng đổi ý. Bữa tối nay gặp bà, nó sẽ thuyết phục bà phải ở lại. Nếu không thì ai sẽ chăm sóc Billy trong những ngày dài trường nghỉ học? Thằng nhỏ không có nhà, không cha mẹ, không người thân nào trên đời này để mà nương tựa. Gia đình Bloor luôn hứa hẹn là nó sẽ được nhận làm con nuôi, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra, trừ phi ta tính đến vợ chồng nhà de Grey – đã nhận nuôi Billy mà giam cầm nó và đối xử với nó như đầy tớ.

Bọn trẻ bị cấm túc thường hay phải xơi bữa tối nguội lạnh trong căng-tin. Nhưng khi Billy và Charlie xuống lầu lúc 6 giờ, căng-tin xanh da trời vắng tanh. Ghế chất hết cả lên bàn và một tấm trải ca-rô xanh da trời phủ kín quầy.

Charlie mở cửa đi vào bếp và ngó quanh quất. Không thấy một mống người. Tất cả nồi niêu xoong chảo nặng nề đều treo vào chỗ, cửa bếp lò đóng lạnh te, đến cả tiếng nước sôi cũng không có.

“Bọn mày làm gì ở đây?” Một giọng cất lên.

Charlie quay lại. Đụng mặt đối mặt với vợ của lão Weedon. Mụ Weedon là người mặt thớt, dữ tợn, mắt lồi, thường ngày phụ trách căng-tin xanh lá cây.

“Cháu tìm bà bếp trưởng,” Charlie nói.

“Bà ta ra ngoài rồi.” Đôi môi không máu của mụ Weedon chẹp chẹp một cách cáu kỉnh.

“Tụi cháu muốn ăn tối.” Charlie nhìn Billy, đang đứng hy vọng cạnh một chiếc bàn chất đầy ghế.

Mụ Weedon liếc qua Billy. “Tao đoán là mày bị cấm túc, phải không Charlie Bone?”

“Điều đó không có nghĩa là cháu sẽ không được ăn,” Charlie ngang ngạnh.

“Chậc!” Mụ Weedon quay lưng bước ra. “Tụi bay theo tao,” mụ nói với lại bọn chúng.

Căng-tin xanh lá cây cũng trong tình trạng như căng-tin xanh da trời: ghế để hết lên bàn, quầy phủ kín, có điều là bằng một tấm trải màu xanh lá cây.

“Tao chỉ có đậu nướng thôi,” mụ Weedon sấn sổ. “Bọn mày ra ngồi kia,” mụ chỉ một cái bàn. “Tao không có bổn phận trực, nhưng bà bếp trưởng đi đột xuất quá, có trời biết đi đâu, gia đình Bloor muốn bữa tối của họ, và tao phải mang lên tận chái phía tây để dọn cho họ, nếu tụi mày cảm phiền.”

Charlie chưa bao giờ biết mụ Weedon lại nói nhiều như thế này. “Bà bếp trưởng chưa đi hẳn đâu ạ?” Nó ngập ngừng dò hỏi.

“Đi hẳn? Dĩ nhiên là chưa.” Đôi mắt lồi của mụ Weedon nheo híp lại. “Sao hỏi vậy? Cái gì khiến mày nghĩ mụ ta sẽ đi hẳn?”

“Không ạ. Chỉ là... tụi cháu thắc mắc.”

Mụ Weedon nhăn nhó lắc đầu. “Mày thắc mắc nhiều quá mức tốt đẹp cho mày.” Mụ nện gót đi qua cửa vô nhà bếp.

Charlie và Billy dỡ hai chiếc ghế xuống khỏi cái bàn mụ Weedon đã chỉ, và ngồi xuống.

Món đậu được dọn ra không còn ấm nữa. Bánh mì nướng bị cháy và không có lấy một mẩu bơ. Charlie quyết định xin thêm lượt hai. Bảo Billy đi theo mình, nó tới cánh cửa nhà bếp xanh lá cây và ngó vào. Không thấy tăm hơi mụ Weedon đâu cả.

“Đi,” Charlie thì thào. “Vô coi có đồ ăn không. Anh đói chết lên được.”

Chúng rón rén vô nhà bếp. Một hàng hộp thiếc đập vào mắt Charlie. Không nghi ngờ gì, chúng đựng bánh bích quy sô-cô-la và nhân nho. Tụi nhóc nhón mỗi thứ hai chiếc, rồi vừa ăn nhồm nhoàm vừa đi sâu hơn vô phòng. Billy phát hiện một hộp bánh bơ giòn, liền đút một chiếc vô túi quần. Charlie thấy một ổ bánh mì gừng thì bẻ ra lấy một khúc. Nó đã bắt đầu bớt bớt đói. Chúng tới cánh cửa đằng cuối nhà bếp và bước ra một mảnh sân, nơi có một cầu thang đá dẫn lên đường cái.

“Í, tụi mình có thể ra ngoài bằng đường này,” Charlie nói. “Tụi mình có thể lẻn vào thành phố và tìm tới một tiệm cà phê ngon lành và...”

Cùi chỏ Billy thúc vào mạng sườn Charlie. “Coi kìa!” thằng bé thì thào.

Ở cuối sân có hai người ngồi chồm hỗm ở trong một góc tối. Thật ra, họ không hẳn là người. Mắt họ sáng quắc như mắt của loài thú ăn thịt và mặt họ lấm chấm những mảng lông. Trong vài giây họ bất động đến nỗi cứ tưởng họ là những pho tượng nhưng, bất thình lình, họ phọt ra một tiếng rên và hấp tấp đi về phía cầu thang. Họ leo cầu thang bằng cả bốn chân, nhảy phóc lên bậc trên cùng nhanh như mèo. Cánh cổng sắt thông ra đường kêu lảnh lót khi hai dáng người đẩy mở nó ra và biến mất.

Billy bíu chặt lấy cánh tay Charlie. “Họ là cái gì đó?”

“Anh không biết. Nhưng họ đang đi theo anh.” Nó nhận thấy có gì đó ở cái góc hai người lạ hồi nãy vừa ngồi. Hình như là một tô bánh pudding? Nó bước lại gần xem sao.

“Coi này!” nó la lên. “Cái tô này còn một nửa các món điểm tâm. Đậu phộng, cháo yến mạch, chuối và vài thứ nữa. Trông như có người đem tới cho họ ăn vậy. Lại xem này.”

Trước khi Billy kịp nhúc nhích thì một bàn tay phóng ra khỏi khung cửa đằng sau nó.

Mụ Weedon chộp lấy đằng sau cổ áo Billy và giật, suýt làm nó nghẹt thở. “Tụi mày vừa mới làm gì đó?” Mụ trợn mắt nhìn Charlie.

“Tụi cháu đói bụng,” Charlie đáp.

“Đó không phải là lý do để rình mò.” Mụ Weedon buông Billy ra và đẩy dúi nó một cái. “Tụi mày có thấy ai ở đây không?”

“Tụi...” Billy chu mỏ, nhưng Charlie nhanh trí la lớn, cắt lời thằng nhỏ. “Không, không thấy ai.”

“Hừm.” Mụ dòm Charlie đầy ngờ vực, đôi mắt muốn lòi ra. “Đi vô.”

Chúng cum cúp tuân lệnh.

“Tao sẽ báo với tiến sĩ Bloor vụ việc này,” mụ Weedon nói khi mụ theo chúng vào căng-tin. “Khôn hồn tụi mày lên thẳng giường đi ngủ đi.”

“Tụi cháu không làm gì sai trái,” Charlie phản kháng.

“Mày chỉ được cái mồm,” mụ gầm gừ.

Chúng nghe thấy tiếng đồng hồ treo tường kêu tích tắc khi bước ra khỏi cửa căng-tin. Charlie lần sờ khúc bánh mì gừng trong túi, mừng rơn là cả hai đã thó được cái ăn trước khi bị tóm.

Bà giám thị dòm vào kiểm tra bọn nhỏ khi lên phòng tắt đèn. “Ngày mai ông cậu mày sẽ đến đón mày,” bà ta nói lạnh trơ. “Mày thật là phiền phức, Charlie Bone.”

“Billy sẽ về nhà với cháu,” Charlie bảo.

Bà giám thị dẩu cớn môi lên nhưng không châm chích gì. Ông cậu Paton đã buộc gia đình Bloor phải ký một thỏa thuận hứa cho Billy nghỉ cuối tuần ở bất kỳ đâu nó muốn.

Một đêm lạnh tơi bời, chúng rúc vào chăn và ăn bánh lấy được trong nhà bếp. Charlie nhanh chóng ngủ thiếp đi. Nó mơ thấy ba mẹ, đang cưỡi sóng trên con thuyền, xem cá voi hát dưới đại dương. “Chúng hát thật đó con,” mẹ nó đã nói vậy. “Con có chắc là không muốn đi không?”

Charlie thấy mình lắc đầu. Ba mẹ cần thời gian riêng tư bên nhau. Họ đã mất mười năm xa cách nhau; ngoài ra, bản năng mách bảo Charlie rằng mình phải ở lại trong thành phố, nơi mà có quá nhiều người muốn ba nó “biến khỏi trần gian”, nơi mà những mưu mô quỷ quyệt đang manh nha, nơi mà các bạn của Charlie liên tục bị nguy hiểm rình rập.

Trong giấc mơ của Charlie, tiếng cá voi hát từ từ biến thành tiếng ai oán, thê lương, và trong khi lắng nghe nó chợt nhận ra mình đang thức, và một lần nữa, đang lắng nghe tiếng tru tuyệt vọng, từ xa.

“Billy, em có nghe thấy không?” Charlie thì thào.

“Có,” Billy đáp. “Nó vẫn lặp đi lặp lại những lời: ‘Cứu tôi với!’. Charlie, những lời đó như đập thẳng vào tim em. Tụi mình phải làm gì bây giờ?”

“Cứu nó!” Charlie đáp, mặc dù nó không biết phải cứu cách nào.