Charlie Bone 6: Charlie Bone Và Sói Hoang

Chương 6

Tượng thần lùn

Olivia bắt đầu khiến Charlie khó chịu. “Sao nó bỏ chạy như ma ám thế?” Nó thắc mắc.

Emma nhìn nó trách móc. “Chứ cậu nghĩ tại sao?”

Charlie bực tức. “Làm sao Olivia lại tin mình đã nói những điều ấy về nó. Dagbert bịa ra đó. Thằng đấy nói láo. Bồ đâu có tin, phải không Emma?”

“Ờm…” con nhỏ lúng túng. “Tớ luôn tin khi người ta bảo tớ… không đẹp, hay tớ ngu, hay…”

“Bồ không nên vậy, đồ…” Charlie kịp dừng lại. “Ý mình là bồ tuyệt đối không đc tin lung tung.”

“Dagbert luôn luôn dối trá,” Billy đỡ lời.

“Nó bảo Billy là đồ dị dạng,” Benjamin thêm.

“Mà Billy có bực mình đâu,” Charlie bảo.

“Đã bực,” Billy sửa lại.

Charlie giả bộ như không nghe thấy. “Và tớ thích các kiểu tóc của bồ, Em.”

Trông bộ Emma tươi lên. Con nhỏ suýt mỉm cười. “Để mình sẽ giải thích tất cả cho Liv. Nó rất nhạy cảm về diện mạo của mình. Nhưng, nói thật, mình nghĩ nó thích phóng đại mọi thứ lên cho kịch tính một chút. Chẳng bao lâu nó sẽ chán mang vẻ mặt cau có, và rồi nó sẽ lại hành xử như chưa từng có chuyện gì xảy ra ấy mà.”

“Mình hi vọng sẽ nhanh nhanh lên,” Charlie bảo.

Thằng bé con nãy giờ cứ dòm trừng trừng cái ấm đen. Thình lình nó hỏi. “Cái gì đó?”

“Cái này á?” Charlie giơ cái ấm lên với vẻ e dè. “Là cái ấm cũ anh mượn đó mà.”

“Cũ, cũ ơi là cũ,” thằng bé nhận xét.

Emma hét lên. “Xin lỗi, tớ quên mất. Đây là hai đứa em họ của bồ đó, Charlie.”

“Ý bồ nói chúng là … con của bà dì Venetia?” Charlie bắt đầu lư ý tới cặp đôi cầu bơ cầu bất. “Anh là Charlie,” nó cười toe toét với bọn trẻ. “Thì ra … bà cô của anh là mẹ mới của các em.”

“Tụi em biết rồi,” đứa con gái nói. “Em là Miranda và đây là Eric. Tụi em đi lấy con chó của tụi em.”

“Bồ không định đi với tụi này à, Charlie?” Emma mỉm cười đầy sức thuyết phục. “Tớ không thích Nghách Tối, mà Olivia thì về rồi.” Nó ôm lấy người và rùng mình.

“Đi chứ,” Charlie nói.

Nghách Tối không phải là nơi người ta thích đến một mình. Một ngõ hẹp tí,tối om om dẫn vào một khu toàn những tòa nhà cao, xám xịt bao quanh một mảnh sân lổm ngổm đá sỏi. Hầu hết nhà ở đó đều bịt kín mít – cửa lớn thì đóng đinh chết dí còn cửa sổ thì cài thanh chắn.

Ở cuối mảnh sân có một dãy nhà cắt ngang ngõ hẻm. Nhà nào cũng có những tháp nhọn cao nghệu, nhữnglan can sắt, cửa sổ dài, trên trán tường trang trí những tượng đá hình thù quái đản: người khổng lồ, yêu tinh, thần lùn, quỷ sa tăng và những con thú gớm ghiếc.

Nhà của bà Cô Venetia ở bên phải, vừa lợp mái mới sáng chói, trông khang trang hơn nhà của bà cô Eustacia ở chính giữa, hay nhà của bà cô Lucretia ở bên trái.

“Bà cô Venetia vừa dựng lại nhà mới,” Charlie nhận xét. “ Sau vụ hỏa hoạn trông nó kinh khủng khiếp.”

“Hỏa hoạn?” Gương mặt quắt queo của Miranda rúm lại sợ hãi. “Chuyện xảy ra thế nào?”

“Ờ … è … à, một tai nạn,” Charlie lảng tránh.

Emma nhìn nó một cái, ra điều cảm ơn nó đã không miêu tả chi tiết. Ba cầu thang dẫn lên ba cánh cửa đen; mỗi cánh cửa gắn một con số 13 bằng đồng thau ở chính giữa.

“Ba số 13,” Billy thì thầm. (Đây là nơi khiến người ta phải nói thầm với nhau). “Chắc chú đưa thư sẽ rối tinh rối mù?”

“Chắc chắn,” Charlie thừa nhận.

Có tiếng rên tru tréo từ bên trong ngôi nhà số 13 thứ ba, và Miranda thét. “Chattypatra đó! Thấy chưa?”

Chúng chạy băng qua mảnh sân và dừng lại ở chân cầu thang. Hạt Đậu bắt đầu sủa phấn khích. Đuôi nó ngoáy tít hầu như không thấy đâu nữa.

“Ông của bồ bảo chìa khóa ở dưới bức tượng thần lùn,” Emma nói với Charlie.

“Thần gì?” Nhưng Charlie đã thấy nó: một khối đá lùn tùm hụp, trông như quỷ hiện hình ở góc tối mái hiên.

“Chị tới đây, Chattypatra,” Miranda gọi. “Tới đây.”

Tiếng tru càng dữ dội hơn, biến thành một tràng rú mê sảng, trong khi Hạt Đậu hòa theo bằng tiếng đặc trưng ắng ắng của mình.

“IM ĐI!” Charlie hét con chó to.

Benjamin bụm bàn tay quanh mũi Hạt Đậu. “Bồ không cần phải quát nó thế,” nó nói như bị xúc phạm.

“Xin lỗi, chỉ tại mình không suy nghĩ được,” Charlie nhìn trừng trừng bức tượng.

“Có gì phải suy nghĩ? Chìa khóa ở dưới bức tượng.” Emma bắt đầu bước lên cầu thang.

“Đừng, Em.” Charlie níu cánh tay con nhỏ. “Cầm cái này.” Nó trao cho con nhỏ cái ấm.

“Óa, nặng quá.” Emma chạm vào hông chiếc ấm đen. “Nó nóng thế.”

“Mình biết.” Charlie đã nhận thấy cái ấm đang nóng lên. Có gì nguy hiểm ở nhà bà cô Venetia? Nó bước lên cầu thang trong khi bọn kia vẫn ở dưới sân, nín khe nhìn nó. Nó cúi xuống bức tượng, chợt dừng lại. Bức tượng vừa mới chớp mắt. Lẽ nào đó là hiếu ứng ánh sáng? Hay là bóng của Charlie đổ khuôn xuống khối đá? Không phải. Charlie chắc chắn một mí mắt của bức tượng vừa mới bao lấy con mắt tròn ác nghiệt. Việc xảy ra rất nhanh, hầu như không kịp thời gian cho Charlie ghi nhận. Nhưng đúng là nó đã động đậy.

Charlie quay lại đám trẻ dưới kia, tất cả đang nhìn lên nó, chăm chú theo dõi, ngoại trừ Eric – thằng bé đang ngó đăm đăm bức tượng với vẻ xa xăm, quái lạ.

Charlie nín thở, cúi lẹ xuống và đẩy bức tượng ra sau. Chiếc chìa khóa cửa của bà cô Venetia lộ ra. Nó nhặt lên và vẫy vẫy xuống cho bọn kia.

Cả đám hò reo “ Uu-raa!” và chạy ùa lên cầu thang.

Charlie tra chìa kháo vào ổ,vặn, và cánh cửa mở ra mà không két lên, huống hồ là tiếng rít dựng gáy như nó đã e ngại.

Một con chó nhỏ màu trắng bắn ra khỏi ngôi nhà và nhảy gọn vào vòng tay Miranda.

“Ôi, Chatty, Chatty!” Mắt Miranda có nguy cơ tràn lệ đến nơi.

Eric mỉm cười, một cách không cưỡng lại được.

Hạt Đậu mừng quýnh hơn bao giờ hết. Nó giật khỏi tay Benjamin, lao bổ tới, hít ngửi con chó trong tay Miranda. Chattypatra không phản đối; mà thật ra cô nàng sục mõm hít lại và sủa ăng ẳng rất bình thản vào tai chú chàng.

“Cuộc hôn phối thần tiên,” Benjamin thở hắt ra toại nguyện. “Mình luôn biết một ngày nào đó Hạt Đậu sẽ tìm được bạn gái mà.”

Miranda nguýt Benkamin một cái.

Charlie trả chìa khóa vào chỗ cũ và cả đám tức tốc rút khỏi Ngách Tối. Charlie cảm thấy tội nghiệp hai đứa trẻ sẽ phải trở về, sống với bà cô Eustacia nghiệt ngã. Nó đắn đo liệu mình có nên đề nghị chúng tá túc ở ngôi nhà số 8 không, nhưng có điều gì đó ngăn nó lại, có lẽ là ánh mắt lạnh lùng của Eric và cái kiểu thằng bé cứ liếc trộm chiếc ấm.

“Này!” Emma trao lại cái ấm cho Charlie. “Ấm gì quái chưa từng thấy. Giờ nó nguội rồi.”

Ngón tay của Charlie nắm quanh quai ấm lạnh ngắt. Nó không hó hé gì tới lịch sử kì lạ của vật này.

Nhóm trẻ tách ra làm hai khi chúng tới đường Đồi Cao. Bọn con trai Charlie rẽ trái vô đường Filbert, trong khi đám còn lại đi về khu nhà thờ lớn.

Benjamin cần Charlie hỗ trợ mới kéo được Hạt Đậu khỏi Chattypatra, cô nàng ngoan ngoãn đi bên cạnh Miranda, chốc chốc lại dừng bước và ai oán nhìn về hướng Hạt Đậu.

“Vậy không công bằng,” Billy nói. “Hai con chó đáng ra phải đi cùng với chúng ta.”

“Em có tính cho tụi anh biết chúng nó đang nói gì không?” Charlie hỏi.

Billy đỏ mặt lên. “Trời, toàn tình yêu không à.”

Benjamin nhướng mày nhìn con chó của nó. “Chẳng hạn?”

Billy hắng giọng. “Đại khái… à, em là con chó đẹp nhất anh thấy kể từ bữa sáng.”

“Bữa sáng?” Charlie thắc mắc. “Em gọi đó mà là tình yêu?”

“Đó là thứ nó thích nhất,” Benjamin đăm chiêu. “Một miếng bánh nhân thịt bò hấp còn thừa.”

Charlie không hỏi Chattypatra nói gì nữa. Nó nghĩ mình sẽ thất vọng mất. Với lại Billy sẽ ém nhẹm nhiều. Đảm bảo thằng bé ngượng nên không nhắc lại những câu yêu thương ướt át đâu.

Rembrandt thẳng lên phòng Charlie. Nó không muốn Hạt Đậu đuổi con chuột của nó chạy lòng vòng quanh nhà.

Ngoại Maisie đã sẵn sàng một trong những bữa trưa hoành tráng nhất của bà. “Ra là các cháu đến nhà số 13?” Bà hỏi khi đám nhóc đang ngấu nghiến món bò rô-ti. “Ông Paton đã kể cho bà nghe tất cả rồi.”

“Tụi cháu đã tìm thấy con chó và Hạt Đậu mến cô nàng ngay.” Benjamin trìu mến liếc con chó đang ngồi trong góc, thậm chí không đụng tới cục xương mà ngoại Maisie đã đặt xuống trước mặt nó.

“Nó tương tư rồi,” ngoại Maisie quan sát. “Đó là tình yêu đích thực.” Bất thần bà trông thấy cái ấm đen dưới sàn, cạnh chân Charlie. “Gì thế này?”

“Nó là … ừm, cái ấm.” Charlie đáp. “Con nhận nó ở một tiệm trên đường Piminy, bà Kettle đưa.”

“Chả hiểu sao mà con muốn cái vật cũ mèm đó?” Ngoại Maisie hỏi. “Cái ấm điện của bà là tốt lắm rồi.”

“Cái ấm đó rất đặc biệt.” Billy nói.

“Ààà!” Ngoại Maisie vỡ lẽ ngay. “Ta nghĩ bà Kettle cũng là con cháu Vua Đỏ.”

“Tổ tiên bà ấy là một thợ rèn kiêm thầy pháp,” Charlie bảo. “Ông ấy đã làm cái ấm này. Nó có thể… ừm, hữu ích cho con.”

“Hừừ!” Dẫu tự hào về tài phép của Charlie nhưng nhiều khi ngoại Maisie cho đó là điều bất hạnh khùng khiếp. Nó đã bao phen dẫn Charlie tới nguy hiểm, rơi vào những tình huống mà chỉ nhờ may mắn Charlie mới toàn mạng.

Cửa trước xô đánh ầm rồi những bước chân huỳnh huỵch băng qua hành lang lát gạch bông. Charlie vội dùng chân đẩy cái ấm xa tít vô gầm bàn. Nhưng đã quá trễ. Một phút sau khi cửa mở tung, nội Bone đứng sựng đó, nhìn mọi người trừng trừng. Mắt bà ta lập tức hạ xuống chiếc ấm đen. Làm thế nào mà bà ta luôn nhìn thấy những vật mà Charlie muốn giấu thì quả là điềm bí hiểm.

“Cái gì đó?” Bà ta chất vấn.

“Đâu có gì,nội Bone,”Charlie làm mặt ngớ ngẩn.

“Đừng làm bộ ngu si. Tao thấy rõ mà đâu có gì. Một cái ấm bẩn thỉu. Vứt đi. Tao không muốn chứa nó trong nhà của tao.”

Ngoại Maisie kéo một chiếc ghế ra mời. “Bà muốn ăn trưa không, Grizelda?”

Không rời mắt khỏi cái ấm, nội Bone nói, “ Ta ăn rồi, đừng cố ý làm ta phân tâm.”

Charlie bất chợt hào hứng. “Để nộp cho trường đó, nội Bone. Tụi con bị bắt phải tìm đồ vật cổ xưa cho môn lịch sử. Con thấy tự hào về mình quá.”

Mặt nội Bone hơi hơi mềm đi. Việc ở trường là một ưu tiên trong sách lược của bà ta. Tuy nhiên bà ta vẫn không bị đánh lạc hướng hoàn toàn. “Nó để nộp cho trường sao mày dám bảo là đâu có gì?”

Charlie cứng hàm. Nó nhìn Billy và Benjamin, hy vọng sự ứng cứu. Bọn này im de trố mắt dòm lại nó, bất lực.

Nhưng Hạt Đậu đã kịp cứu Charlie. Con chó bự này ghét nội Bone không kể xiết. Chỉ cái mùi của bà ta thôi cũng đủ làm nó phọt ra một tiếng gừ tức giận.

“Tao đã bảo là không được mang con chó này vô đây kia mà,” nội Bone hướng hỏa lực về phía Benjamin.

“Phải, thưa bà Bone,” tiếng Benjamin hầu như tịt mít.

Ngoại Maisie không đời nào chịu để bữa trưa của mình bị gián đoạn kiểu này. “Lạy trời, Grizelda.” Bà dằn mạnh chiếc ghế không. “Nếu bà không muốn ăn thì làm ơn lặng lẽ đi. Bọn trẻ này đang lạnh và đói, và ta sẽ không để bà hoãn bữa ăn nóng sốt của chúng đâu. Con chó đó chẳng làm gì hại cả.”

“Bà coi chừng đấy, Maisie Jones.” Nội Bone trong cơn say kiếm chuyện. Có thể thấy rõ điều đó trong nụ cười nham hiểm trên mặt bà ta. “Nếu bà còn đối đầu với ta thì bà sẽ bị đuổi cổ. Đây là nhà của ta và bà được hạ cố cho ở nhờ mà thôi.”

Một giọng cất lên đằng sau bà ta. “Nhà của chúng ta, Grizelda.”

Nội Bone giật mình đánh thót. Bà ta đã không nghe thấy tiếng Ông cậu Paton từ đằng sau đi tới.

“Hãy thôi nói tào lao và để chúng tôi ăn yên lành.” Ông cậu Paton chộp lấy vai bá chị.

Bà ta vùng khỏi ông, làu bàu trong cổ họng rồi lủi vội lên cầu thang.

Ông cậu Paton bước vô bếp và ngồi vào chỗ đầu bàn. “Xin lỗi, tôi xuống trễ,” ông nói như không có gì xảy ra.

Bọn con trai phấn chấn hẳn lên, nhưng cố kìm chế, đề phòng nội Bone tìm cách trở xuống hoạch họe chúng. Benjamin bị chướng bụng. Điều đáng phàn nàn duy nhất khi đến nhà Charlie : hình ảnh gây lộn ruột của nội Bone.

Phần còn lại của bữa ăn trôi qua rất vui vẻ. Đến lúc cắt bánh pudding nho, Charlie đã kể xong cho ông cậu nghe về chuyến thăm bà Kettle và phi vụ giải cứu Chattypatra.

“Chúng ta hãy xem cái ấm nào,” Ông cậu Paton nói khi khi miếng bánh pudding cuối cùng đã biến mất.

Charlie lấy chiếc ấm đặt lên bàn.

“Dơ quá,” ngoại Maisie cự nự và chồng những cái đĩa không lại.

Ông cậu Paton đeo kính vào và kéo cái ấm về phía mình. Ông nhắc nắp ấm lên. “Ừm,” ông hít ngửi chất lỏng màu đen. “Chẳng có mùi gì,” ông nhận xét, “nhưng rõ ràng nó rất, rất, rất xưa rồi.” Ông gõ gõ thành ấm. “Sắt. Đúng. Rất lạnh.”

“Đó là vì không có nguy hiểm,” Billy nói.

“Cháu cá là nó vừa mới nóng lên,” Benjamin nói, nhìn vô chỗ nội Bone đứng vừa nãy.

“Bà ấy không nguy hiểm,” Charlie nói. “Bà ấy chỉ xấu tính thôi. Nhưng có gì đó rất nguy hiểm ở nhà cô Venetia, có lẽ là…” nó ngại ngần.

“Có lẽ là cái gì, Charlie?” Ông cậu Paton nhìn qua phía trên cặp kính nửa vầng trăng.

“Không ạ,” Charlie không biết giải thích thế nào về cái chớp mắt của bức tượng thần lùn. Rất có thể đó chẳng qua là nó tưởng tượng mà thôi.

Ông cậu Paton bảo nó để cái ấm ở trong phòng nó. “Để chỗ khuất ấy, nếu ta là con,” ông thêm. “Con không muốn làm mất nó đâu nhỉ.”

Binhg thường hẳn là Charlie đã tới quán Cà Phê Phú Kiểng vào chiều Chủ Nhật. Nhưng hôm nay không có vẻ bình thường. Nó không muốn tái đụng độ Olivia, vả lại, có tin đồn rằng Tancred và Lysander sẽ đưa bạn gái tới đó. Về mặt này mặt khác, Charlie thấy quán Cà Phê Thú Kiểng không phải là nơi thích hợp để dẫn bạn gái tới. Bầu không khí ở đó không thể gọi là lãng mạn được.

Vì vậy bọn con trai ở lại trong bếp coi tivi, đến khi ánh sáng rời bầu trời và màn đêm sao sa phủ trùm thành phố.

Đến lúc Benjamin ra về, Hạt Đậu vẫn đượm vẻ khao khát trong đôi mắt nâu to tròn.

“Chắc mình phải đưa nó trở lại gặp Chattypatra mất,” Benjamin nói từ bên kia đường. “Có lẽ cuối tuần sau.”

“Ừ,” Charlie đáp. Nó nghĩ đến hai đứa bé con ở Ngách Tối. Nó hi vọng Chattypatra được phép ngủ chung với bọn chúng.

Charlie nhìn Benjamin đi vô nhà nó xong rồi quay lại leo bậc cấp nhà số 9. Một chuyển động trên đường đập vào mắt nó. Có gì đó vọt ra khỏi một thân cây – vật đó thấp, không hình thù. Nó vội vàng lỉnh vô nhà và đóng sập cửa lại.

Đó là lúc thắp nến. Ngoại Maisie tắt đèn bếp, còn Charlie tắt đèn hành lang. Nội Bone là người duy nhất trong nhà đã quên mất nề nếp này. Ai nấy tưởng bà ta phải nhớ tài phép của Ông cậu Paton chứ, chỉ tính riêng bao lần bà ta bị tắm mưa thủy tinh.

“Em thích ánh nến lắm,” Billy nói, nó mang con chuột xuống để cho ăn. “Cả Rembrandt cũng thích.”’

“Anh cũng vậy,” Charlie nói.

Quả thật, khung cảnh ấm cúng, trên bếp lò khẽ reo và nến tắm đẫm căn phòng ấm áp trong ánh sáng vỗ về. Sau đó Charlie ra kéo rèm cửa lại, thì bỗng tâm trạng an bình, thoải mái của nó bị xóa tan tức khắc, bởi vì, có hai gương mặt đang nhìn lên cửa sổ - những con mắt vàng ệch lóe lên tia sắc của laoif thú và vầng trán thấp lộ những túm lông.

Charlie thét thất thanh.

“Gì đó?” Ông cậu Paton lật đật ùa vô nhà bếp.

“Là họ,” Charlie run rẩy. “Cái vật chúng ta đã thấy bên ngoài Góc Kim Cương.”

Hai hình thù đội mũ trùm liền lùi khỏi cửa sổ.

Những cặp mắt cháy chĩa về phía ông, rồi hai người lạ co giò chạy trên đường.

“Dừng lại,” Ông cậu Paton gọi. “Cho biết danh tính.”

Những người đội mũ trùm tăng tốc.

“Này, đừng chạy!!”

Charlie ra tới cửa vừa kịp thấy ông cậu lao xuống những bậc thang và đuổi theo hai kẻ lạ. Lúc này họ thụp cả bốn xuống mà chạy với tốc độ dữ dội. Nhưng Ông cậu Paton có đôi cẳng dài nhất thành phố. Chỉ với ba cú dướn, ông đã bắt kịp họ.

“Bắt được rồi!” ông hét, tóm gáy một trong hai kẻ lạ.

Charlie không rõ chuyện gì xảy ra tiếp theo, bởi vì đèn đường phía trên Ông cậu Paton bất thần nổ tung và thủy tinh xổ như làn mưa bạc xuống cả ba thân hình.

Một tiếng tru cuồng nộ dội vang phố phường, nối tiếp là tiếng thét đau đớn của Ông cậu Paton.

“Trời, nó cắn ta!”

“Không phải nó, thưa ông Yewbeam,” một giọng rít rú. “Chúng tôi là con người.”

“Ai…” Ông cậu Paton định nói.

Nhưng hai sinh vật đã tan biến vào bóng tối.

Săn Sói Hoang

Ngược xuôi đường Filbert, những cửa rà vào và cửa sổ lần lượt mở ra, cái thì bạo dạn, cái thì rụt rè. Tiếng người lao xao chõ vào màn đêm.

“Chuyện gì đó, hả?”

“Ai vậy?”

“Ông Yewbeam nhà số 9.”

“Ông Yewbeam, ông có sao không?”

Ai đó hỏi, “Có phải nó là sói?”

Trước khi Ông cậu Paton trả lời gì, Agnes Prout, hàng xóm sát vách của gia đình Yewbeam, hét tướng. “Chắc chắn là chó sói. Nó đã vô thành phố.”

Nghe vậy lập tức năm, sáu cánh cửa vội đóng ập lại.

Nắm chặt cổ tay, Ông cậu Paton lảo đảo đi ngược về nhà. Khi Charlie chạy tới đón ông, Benjamin và mẹ nó băng ào qua đường, có Hạt Đậu vô cùng sốt sắng dẫn đầu.

“Bồ có sao không, Charlie?” Benjamin hét.

“Mình không sao, nhưng ông cậu mình chắc là có.”

Cô Brown kinh hãi nhìn sựng dòng máu chảy dọc xuống những ngón tay của Ông cậu Paton. “Ông Paton, chuyện gì thế ạ? Tôi có thể giúp gì?

“Không có chi,” Ông cậu Paton cộc cằn. “Bà Maisie sẽ băng bó cho tôi.”

“Nhưng người ông đầy thủy tinh.” Cô Brown luống cuống nhổ những mảnh vụn trên vai Ông cậu Paton.

“Làm ơn tránh ra, Patricia,” Ông cậu Paton khẩn thiết. “Cô làm đứt tay mình bây giờ,” ông bắt đầu leo lên bậc cấp nhà số 9, với Charlie đỡ cùi trỏ ông.

Mẹ của Benjamin chưa chịu về nhà. Cô kiên quyết đứng trên vỉa hè, nhất định phải moi đến cùng sự huyền bí ở ngay mé cửa nhà mình. “Nó là sói phải không?” Cô nghiêm trang. “Mọi người đang bàn tán. Họ gọi nó là Sói Hoang. Ta có thể nghe tiếng nó tru hàng đêm. Chắc hẳn nó sống trong vùng đồng hoang bên kia sông.”

“Patricia,” Ông cậu Paton khẳng định. “Không phải tôi bị sói tấn công.”

“Thế thì là cái gì…”

“Đó là con người!” Rồi không ngoài nhìn lại, Ông cậu Paton sải bước vô nhà.

Charlie thấy mình nên có lời. “Xin lỗi,” nó quay qua Benjamin và cô Brown. “Ông cậu của cháu bị thương. Chúc ngủ ngon, Benjamin, chúc ngủ ngon, cô Brown.”

“Chúc ngủ ngon, Charlie,” Benjamin lo lắng. Vẻ mặt mẹ nó quả quyết: Tôi-sẽ-tìm-bằng-được-sự-thật-của-việc-này.

Cô Brown đĩnh đạc bước về nhà số 12, Benjamin và con chó theo sát nút. “Mẹ sẽ tìm hiểu tận cùng việc này,” cô nói.

“Gì gì thế này?” Ngoại Maisie hét lên khi Ông cậu Paton loạng choạng vô nhà bếp.

“Ông cậu Paton bị cắn.” Charlie giúp ông cậu ngồi xuống ghế.

Ông cậu Paton xắn tay áo lên. “Bà vui lòng lấy cho tôi một chậu nước sạch và một ít thuốc sát trùng.”

“Ông có bao giờ bị chó cắn đâu!” Ngoại Maisie hớt hơ hớt hải ra bồn và hứng nước vô chậu. “Khéo ông nhiễm bệnh dại đấy, Paton.”

“Không phải chó cắn,” Ông cậu Paton nói yếu ớt. “Chắc chắn không phải là chó.”

“Ơn trời,” ngoại Maisie bưng chậu nước tới bên Ông cậu Paton. Cầm cổ tay ông, bà bắt đầu chậm bằng khăn sạch.

Charlie chợn người khi nhìn những vết răng. Ngoại Maisie chậm liên tục bắt đầu có tác dụng. Khi máu sạch hết, vết thương ở cổ tay lộ rõ ra.

“Tôi thấy giống như sói cắn,” ngoại Maisie nhận xét khi quan sát cổ tay Ông cậu Paton. “Những vết này, hình như là răng năng – răng cửa không sâu thế này, chắc chắn là hai cái răng năng, ở một trong hai bên.”

“Tôi không thể giải thích được.” Ông cậu Paton để cho ngoại Maisie băng cổ tay mình bằng một miếng vải voan trắng. “Sinh vật đó nói tiếng người với tôi. Chưa hết, nó còn biết tên tôi.”

“Trời, ai mà tin được!” Ngoại Maisie đứng lên và đem cái chậu trở ra bồn.

Suốt quãng thời gian đó, Billy ngồi im thin thít, ôm chặt Rembrandt vô ngực. Trông nó vừa sợ hãi vừa hoang mang.

“Em sao vậy, Billy?” Charlie hỏi. “Em biết những sinh vật đó à?”

“Không hẳn,” Billy nhíu mày sâu hoắm. “Em chỉ đang suy nghĩ thôi.”

“Suy nghĩ gì?” Charlie ngồi xuống sát bên nó.

“Ừm, thật ra em đang thắc mắc.”

“Thắc mắc gì?”

“Giọng nói – khi nó tru thì nghe như chúng ta hay nghe thấy ban đêm. Thật khó giải thích, nhưng nó sử dụng cùng một ngôn ngữ.”

“Nhưng tiếng chúng ta nghe thấy ban đêm là sói, Billy cưng à,” ngoại Maisie bảo. “Người ta gọi nó là Sói Hoang.”

“Kẻ tấn công tôi hầu như là con người,” Ông cậu Paton thêm.

Billy lễ phép làm mặt bướng bỉnh. “Chúng là một,” nó khăng khăng.

Ông cậu Paton rùng mình thấy rõ. “Trường hợp đó, ta đành kết luận là chúng có họ hàng. Thật tình, ta mệt rũ đến không còn sức mà giải đáp những câu đố này nữa. Ta đi ngủ đây. Tụi nhỏ cũng đi ngủ đi, nhanh lên. Ngày mai còn đi học.” Ông đứng dậy, hơi nhăn mặt khi ông nắm bàn tay trái vô lưng ghế mình đang ngồi.

Ngoại Maisie lắng nghe tiếng Ông cậu Paton lê chân lên cầu thang. Bà lắc đầu. “Ông cậu của con không ổn đâu, Charlie, nếu con hiểu ý ta. Ta cầu cho vết cắn không có nọc độc.”

Charlie không có cơ hội chờ xem vết cắn của Ông cậu Paton có khỏi không. Sáng thứ Hai nào cũng quýnh quáng cả lên. Quần áo nhét vội vô giỏ xách, bữa sáng cập rập, sau đó Charlie và Billy ra khỏi nhà, chạy hộc tốc đến cuối đường Filbert để đón xe buýt của học viện.

Ngoại Maisie vẫy tay tiễn chúng, hét với theo. “Ta sẽ báo cho các con nếu ông cậu trở nặng. Cẩn thận đấy, các con.”

Lũ trẻ trong học viện không được phép dùng điện thoại, radio hay tivi. Vài đứa nhớ nhà đã lén mang điện thoại di động vô, nhưng trong học viện luôn có gián điệp sẵn sàng tố giác bạn bè để lấy lòng gia đình Bloor. Điện thoại di động luôn luôn bị phát hiện và bị tịch thu, còn chủ nhân thì bị cấm túc.

Bà bếp trưởng là mối dây liên lạc duy nhất của Charlie với thế giới bên ngoài, nhưng nó e ngại không biết nỗi sợ Lord Grimwald có ngăn bà tiết lộ tức cho nó hay không.

Suốt cả ngày không thấy bà bếp trưởng xuất hiện trong căng-tin. Tới bữa trà, Charlie nhoài người qua quầy, khẽ hỏi một cô phụ việc nhà bếp thân thiện tên là Valerie, xem có phải bà bếp trưởng bị bệnh không.

“Cô thấy bà ấy khỏe mà. Chắc bà ấy bận tối mũi nên không ra quầy được.”

Charlie lo lắng. “Cô cho cháu gởi… gởi lời hỏi thăm bà ấy được không?”

“Được chứ cưng.” Cô Valerie nhoẻn miệng cười.

Bất chợt có tiếng eo éo. “Vậy ra bà bếp trưởng là bạn của anh à?”

Charlie quay lại. Dagbert đã lẻn đến đằng sau nó từ bao giờ, nhẹ đến nỗi Charlie không biết.

“Kh… không,” Charlie ú ớ. “Chỉ là đồ ăn ngon hơn khi có bà bếp trưởng.”

Đôi mắt xanh lục của Dagbert lóe lên. “Tôi nào co buộc tôi anh gì đâu, Charlie.”

Charlie tất tưởi ra khỏi quầy. Nó không còn muốn ăn nữa. Billy theo nó ra khỏi căng-tin.

“Có tin gì về ông cậu của anh không?” Billy hỏi.

“Làm gì có,” Charlie dấm dẳng. “Anh chưa gặp bà bếp trưởng.”

Billy lót tót đi khỏi, trông tủi thân ghê gớm.

Khi bà bếp trưởng không xuất hiện trong bữa ăn sáng thứ Ba, ruột gan Charlie như lửa đốt.

Fidelio chạy tới Charlie khi nó thơ thẩn trong sân chơi giờ nghỉ giải lao đầu tiên. “Trông em như có mây đen phủ xuống vai vậy.” Fidelio đấm nó một cái thân tình.

“Đâu có!” Charlie đẩy tay bạn đi.

“Sao gắt gỏng ghê thế!”

Charlie thấy hối hận. “Em đang lo cho ông cậu của em. Ông bị một… một vật cắn, với lại em cũng lo sốt vó vì chưa thấy bà bếp trưởng đâu, mà Dagbert thì…?

“Charlie, khoan nào!” Fidelio chặn lại. “Bình tĩnh coi, từ từ kể anh nghe chuyện gì xảy ra.”

Fidelio là người lắng nghe cực giỏi. Charlie nhận thấy đáng lẽ ra mình phải giải bày với anh từ trước rồi mới đúng. Nó tả lại kỳ nghỉ cuối tuần của nó, bắt đầu bằng chuyến đi tới nhà bà Kettle và kết thúc khi ông cậu bị tấn công. “Người ta nhất mực bảo thứ mà tụi em nghe thấy tru ban đêm đó là Sói Hoang, nhưng Ông cậu Paton khăng khăng đó là người. Còn, cái này mới quái dị, Billy bảo giọng của chúng giống nhau.”

“Hừm…” Fidelio dừng lại giữa đường. “Giống nhau?”

Charlie bỗng dưng xao lãng vì một cảnh tượng rất thú vị. Tancred đang sóng bước cùng một cô gái cực kỳ xinh đẹp, tóc vàng óng thả dập dềnh xuống áo chùng tím tới gần chấm eo. Làn da láng mịn, mội mọng đỏ, đôi mắt xám với hàng mi dài, cong vút. “Hê, đó là bạn… “

“Bạn gái của Tancred,” Fidelio nói nốt. “Tracy Morsell, có biệt danh Kẹo Ngọt đối với dân năm ba.”

“Thật không? Anh biết nhiều ghê.”

“Chứ sao,” Fidelio thừa nhận. “Anh dỏng tai nghe ngóng trong sân chơi. Và đằng kia là Emma Tolly tội nghiệp, ôm trái tim tan vỡ.”

Theo ánh mắt của Fidelio, Charlie thấy Emma ngồi cô độc trên một khúc gỗ ở góc sân xa xa. Một chồng sách đặt trên đùi Emma và, dù ở khoảng cách xa thế này cũng có thể thấy rõ con nhỏ đang buồn rười rượi.

“Nó…?” Charlie quay qua Fidelio.

“Nó đặc biệt mến Tancred? Thật. Xưa nay em không để ý à?”

“Em khờ thật,” Charlie vỗ trán. “Đúng rồi, giờ anh lại nói ra. Tội nghiệp Em.”

Tiếng tù và đi săn rúc lên khắp sân, gọi bọn trẻ trở vô lớp học, và Charlie chạy tới giúp Emma nhặt đống sách rơi khỏi đùi, văng tứ tung dưới chân con nhỏ - những trang sách bay bay như những đôi cánh trắng trong gió buốt.

Emma cười cảm kích khi nhận sách từ tay Charlie. “Mình khùng quá mới định học bài ngoài này,” nó nhỏ nhẹ. “Mình có một ý nghĩ điên rồ là nếu mình làm hết bài tập về nhà thì tối nay mình sẽ không phải tới phòng Nhà Vua nữa.”

Charlie lắc đầu. “Đâu được, Em. Họ sẽ giao bài khác cho bồ làm.”

“Mình biết.”

Fidelio chờ chúng để cùng đi vô trường. Ba đứa chúng nó làm tốp cuối cùng rời sân chơi.

Đêm đó Charlie chờ lắng nghe tiếng tru đằng xa. Đêm nay tiếng ọ ẹ và hơi thở nặng nề của bọn con trai đang ngủ quanh nó dường như lớn hơn. Sau đó nó thấy Billy cũng thức giấc. Charlie có thể nhìn thấy cái đầu trắng lòa nhòa của Billy khi nó ngồi dậy ở phía bên kia giường Dagbert.

“Billy?” Charlie thì thầm. “Em có nghe thấy gì không?”

“Em có nghe tiếng tru một lần,” Billy nói khẽ, “nhưng rất nhỏ.”

“Nó nói gì?”

“Em không chắc…” Billy đắng đo. “Hình như là ‘cha’.”

Bỗng rồi chúng nghe thấy tiếng súng nổ từ xa, không thể lầm lẫn được.

Rên nhẹ một tiếng, Billy chui tọt xuống tấm trải giường của nó.

Charlie nằm xuống trở lại gối, thầm nghĩ, Mình hy vọng họ không giết chết nó.

Tại nhà số 12 đường Filbert, Benjamin Brown vẫn còn thức tỉnh rụi. Nó ước gì có Charlie ở nhà để cùng chia sẻ hai ngày qua với mình. Quá nhiều sự việc đã xảy ra. Đầu đuôi là từ cuộc họp được triệu hồi gấp rút trong hội đồng thành phố. Cô chú Brown quyết định cho Benjamin đi dự cùng. “Sẽ tốt cho con,” cô Brown nói. “Con có thể học hỏi được đôi điều.”

Benjamin bán tín bán nghi, tới hồi nó hiểu ra đề tài bàn thảo là về Sói Hoang. Và đúng là nó học được nhiều điều. Trong đó có một điều là người ta thường nói dối khi sợ hãi.

Nỗi sợ bao trùm tòa nhà nguy nga tối hôm đó. Nỗi sợ hiện lên trong mắt mọi người; nỗi sợ được nghe thấy trong những lời nói rón rén và phập phồng. Benjamin ngồi giữa cha mẹ, ngay hàng ghế đầu. Gia đình Brown muốn quan sát từng chi tiết nhỏ nhất của những sự kiện kiểu như thế này.

Có năm người ở trên bục. Họ ngồi đằng sau một cái bàn dài, mỗi người có một tập bìa hồ sơ và một ly nước trước mặt. Benjamin nhận ra vị chủ tọa, ông Marchwell, ủy viên hội đồng lỗi lạc, người thường hay tới thăm trường nó; nó cũng nhận ra người hàng xóm sát vách của Charlie, Agnes Prout.

Ông Marchwell khai mạc phiên kiện cáo bằng một bài diễn văn ngắn. Ông nói với thính giả rằng tất cả họ ở đây là vì những lý do đồng nhất: trước hết, để thảo luận cách thức và phương tiện nhằm xác định “những âm thanh bất thường” (một kiểu mô tả rườm rà về tiếng tru, Benjamin nhận ra vậy) phát ra từ bên kia sông, và thứ hai, để quyết định xem sinh vật chủ thể của “những âm thanh bất thường” đó có đe dọa đến cư dân thành phố hay không.

Tới đây, Agnes Prout thô lỗ cắt lời ông Marchwell.

“Đe dọa hay không á? Dĩ nhiên nó đe dọa mười mươi còn gì. Nó là sói đích xác, quỷ tha ma bắt!”

Vài người vỗ tay tán thưởng cơn giận bột phát này. Benjamin hài lòng là ba mẹ nó vẫn để nguyên tay trên đùi.

“Chúng ta không biết chắc đó là sói, thưa bà Prout,” ông Marchwell nói.

“Chúng ta biết rõ rành rành,” Agnes độp lại. “Chính mắt tôi đã thấy nó. Nó đã cắn ông hàng xóm của tôi, ông Yewbeam. Tôi đã thấy vết thương. Một dòng máu phụt ra từ cổ tay ông ấy – một dòng máu hẳn hoi.”

Cô Brown giơ tay lên.

Ông Marchwell hơi chồm tới trước. “Cô có ý kiến, cô… è, cô…?”

“Brown,” mẹ của Benjamin đứng lên. “Trish Brown. Tôi muốn nêu bật rằng, ông Yewbeam bảo với tôi là ông ấy bị một con người cắn. Một… người cổ xưa, có lẽ vậy, nhưng chắc chắn không phải là sói.”

Benjamin tự hào về mẹ mình quá đi mất. Nó thậm chí còn tự hào hơn khi mẹ cương quyết giữ lập trường trước những lời phỉ báng, rủa xả từ Agnes Prout.

“Nhảm nhí. Cô Brown. Phi lý! Hoặc là ông Yewbeam không còn minh mẫn, hoặc là cô điếc. Đó không phải là người. Mà là sói.”

“Nếu ông Yewbeam ở đây…” cô Brown bắt đầu.

“Ông ta không có ở đây,” Agnes cướp lời, “Thế thôi.”

Cô Brown giận đỏ phừng mặt và ngồi xuống. Chú Brown vỗ vỗ lưng cô.

“Hay lắm, mẹ,” Benjamin thì thầm. Mẹ nó cười với nó một nụ cười nhẫn nhịn.

Benjamin ngước nhìn lên những bóng đèn sáng choang trên trần nhà. Chắc chắn ông cậu của Charlie không thể tới dự cuộc họp này được. Mọi người sẽ bị chụp vô bóng tối, với mưa thủy tinh bao phủ ngay khoảng khắc ông bước qua cửa.

Cử toạ bắt đầu phừng phừng khí thế. Khắp phòng những cánh tay đưa lên rào rào. Người người la ó không chờ đến lượt mình. Bất lực, ông Marchwell giơ tay lên nài nỉ họ hãy tỏ ra văn minh, cho phép mọi người nghe nhau nói.

“Tôi đã thấy nó ở đại lộ Cruckton!”

“Có người bảo tôi nó ở đường Piminy!”

“Nghe nói nó được trông thấy ở quảng trường Nhà Thờ Lớn!”

“Nó bắt mèo ăn!”

“Và cả chó nữa!”

“Sẽ đến con nít mới sinh cho coi!”

“Rồi trẻ con!”

“Phải giết nó!”

Phải hồi lâu tiếng huyên náo mới dịu bớt, nhưng ông Marchwell là người quyết đoán, và ông đã xoay xở kiểm soát được phần còn lại của buổi họp. Chỉ về cuối, sự cuồng loạn mới ngấm vô trong vài tiếng nói.

Một phán quyết được đưa ra. Ngài thị trưởng sẽ được báo cáo về sự bức xúc mãnh liệt của cư dân về “cái vật” trong đồng hoang, theo đó một cuộc đi săn sẽ được tổ chức. Bắt buộc truy phải truy kích, phải bắt, hoặc phải giết cái được gọi là Sói Hoang. Vì ban ngày sinh vật đó im tiếng, nên cuộc đi săn sẽ bắt đầu vào lúc sẩm tối, ngay ngày hôm sau.

Khi cuộc họp giải tán, những tốp nhỏ vẫn còn tụ tập trên vỉa hè bên ngoài tòa thị chính. Benjamin nghe thấy những giọng điệu quá khích. Bạo lực sôi sục trong không khí. Trong nó bỗng dưng nghĩ những con người điên cuồng này còn nguy hiểm hơn bất cứ loài Sói Hoang nào.

Cô chú Brown lẳng lặng bước về nhà. Benjamin nhìn lên vẻ bất bình trên mặt họ và quyết định không hỏi han gì hết. Đúng vừa lúc leo lên bậc cấp nhà số 12, họ nghe thấy tiếng tru sầu thảm xuyên qua bầu không khí lạnh căm.

Benjamin rùng mình. “Nó không có vẻ nguy hiểm, mà nghe như nó đang u sầu.”

“Buồn u uất,” cô Brown đồng ý. “Có gì đó không ổn trong việc này.”

Năm phút sau, ngồi trong gian bếp ấm và sáng sủa, chú Brown nêu lên những giả thiết. “Thế này nhé. Chúng ta nghe thấy tiếng kêu từ đồng hoang, đúng không? Một con thú kêu, có thể nói vậy, một tiếng kêu mang ý nghĩa gì đó. Kêu cứu. Giờ ông Yewbeam nói ‘cái vật’ tấn công ông là con người.”

“Ông Paton Yewbeam không ngốc,” cô Brown chen vào. “Ông nói nó là con người, và em hoàn toàn tin ông ấy.”

“Anh cũng tin, Trish,” người chồng vội nói. “Anh tin. Cái vật mà cắn này có mang đặc điểm thú, vì vậy, có thể có mối liên hệ giữa cái vật trong đồng hoang và kẻ tấn công ông Yewbeam.”

Benjamin chăm chú lắng nghe ba mẹ thảo luận. Được thửa hưởng óc tò mò, nghi ngờ, cũng như khả năng phân tích, diễn giải và linh cảm gấp đôi cha mẹ, bản thân nó hứa hẹn sẽ trở thành một thám tử tài ba.

“Con có một linh cảm,” Benjamin nói.

Cô chú Brown đánh giá rất cao câu nói này.

“Linh cảm, ôi, Benjamin!” Cô Brown tỏ ra rất hài lòng.

“Là gì vậy con? Nói đi!” Chú Brown háo hức nghiên cứu vẻ mặt con trai.

“Ừm…” Benjamin quyết định kéo dài sự chú ý mà nó đã lôi kéo được. “Ờm, có lần Charlie đã nói với con về một anh học sinh, tên là Asa Pike, chưa hề được trông thấy ở học viện trong học kì này. Anh ta được ban phép thuật, giống như Charlie, chỉ có điều anh ta biến thành thú vào ban đêm.”

Chú Brown gật đầu thiếu kiên nhẫn. “Asa? Phải, ba mẹ biết cậu ta.”

“Ờm…” Benjamin nhấn nhá một lúc. Nét mặt lưu tâm của ba mẹ nó có vẻ rất mãn nguyện. “Điều ba mẹ không biết là Asa, một người có thời từng kề cận Manfred Bloor, ờm, Asa đã giúp Charlie tìm ra ba của nó, và con đoán là Manfred vô cùng tức giận về điều ấy, vì vậy, rất có thể hắn đã nhốt Asa ở đâu đó để trừng phạt.”

Cô chú Brown nhìn con trai với vẻ thán phục và vui mừng khôn xiết.

“Benjamin, con nói chí phải,” chú Brown hồ hởi.

“Một khi đã nhận ra chính xác tiếng tru đó, vậy con có nghĩ ra cách nào để cứu con vật tru đó không?” Cô Brown hỏi con trai.

Ở điểm này thì Benjamin nói dối ngây thơ: “Không”, trong khi một ý tưởng đang hình thành trong đầu nó. Đằng sau nó, Hạt Đậu đang nằm ngủ sóng sượt trong ổ. Hạt Đậu có thể tìm thấy bất cứ cái gì, Benjamin suy tính. Nếu ngửi được thứ gì thuộc về Asa, thì con chó bự có thể tìm ra anh ta. Benjamin giữ ý kiến này cho riêng mình. Nó không muốn bố mẹ nó giúp. Nó muốn tìm thấy Asa một mình, hay có lẽ cùng với Charlie.

“Chúng ta phải nhanh chóng làm gì đó ngay,” chú Brown nói, “không thì đội săn sẽ giết thằng bé đáng thương đó trước khi họ nhận ra nó là ai. Để anh sẽ đi gặp ngài thị trưởng.”

“Ông ấy không tin anh đâu,” cô Brown rầu rĩ. “Ông ấy vốn không quan tâm đến những việc xảy ra ở học viện Bloor. Ông ấy biết về những đứa trẻ được ban phép thuật, dĩ nhiên, nhưng ông ấy không thích thừa nhận điều đó.”

“Để con sẽ suy tính thêm,” Benjamin nói.

Tìm được một thứ thuộc về Asa không dễ như Benjamin tưởng. Nó phát hiện ra rằng chưa từng ai thấy cha mẹ của Asa bao giờ. Không ai biết họ sống ở đâu. Hình như họ không có họ hàng thân thích. Bất cứ thứ gì Asa từng mặc hay từng sờ vào đều nằm sâu trong học viện Bloor, một nơi mà những người như Benjamin không thể nào vô được. Chắc chắn gia đình Bloor sẽ không sốt sắng tham gia cứu Asa. Anh ta đã đổi phe. Họ có thể coi anh ta là kẻ chiêu hồi, một kẻ phản bội.

Đến lúc Benjamin đi học về ngày hôm sau, đội săn đã sẵn sàng. Hóa ra cả nửa thành phố đi theo dõi. Bốn mười người đàn ông tráng kiện tập hợp trên cây cầu dẫn tới vùng đồng hoang. Chỉ huy là cảnh sát trưởng Constable và cảnh sát viên Wood, một tay súng cừ khôi. Dưới trướng của họ là một đội quân tạp nham, trông quyết chiến trong trang phục hổ lốn – áo khoát có mũ, áo liền quần, áo gió, áo mưa. Đầu họ đội nón len, mũ trùm đầu, mũ nồi và thậm chí cả nón cao bồi. Vài người đi ủng không thấm nước, hoặc giày thể thao nhưng phần lớn đi giày bốt da vững chãi. Một nửa quân số mang súng săn, còn lại cầm đèn nháy và dùi cui.

Tiếng hò reo vang dậy khi bốn mươi hai người đàn ông rầm rập qua cầu và quẹo phải, đi vô con đường mòn cặp dòng sông. Đi chừng vài mét, con đường mất hút vô những bụi cây thấp rậm rạp – cửa ngõ vùng đồng hoang.

Đứng trên một lối mòn bên hông dòng sông thành phố, cha của Benjamin theo dõi toàn bộ chiến dịch. Chú ấy trở về nhà trong tâm trạng trĩu nặng, lo âu.

“Không xong rồi,” chú nói với vợ và con trai khi cả nhà ăn trứng bác và rau bina. “Sẽ xảy ra thảm họa mất thôi, hãy nhớ lời ba nói. Với súng ống thế kia, thể nào cũng có người bị giết trong vùng đồng hoang mà chưa chắc đã là cậu bé người sói.”

Benjamin bất giác nghĩ đến Naren, bạn của Charlie. Cô bé sống với cha mẹ nuôi trong căn nhà nhỏ sâu trong vùng đồng hoang. Nơi đó là một bí mật, thơ mộng, là nơi bảo tồn, nương náu của thú bị lạc và bị thương. Liệu nó còn là bí mật khi cả toán người vũ trang súng, dùi cui và đuốc hùng hổ, dẫm đạp cây cối xông đến?

Ước gì mình có thể bàn tính với Charlie, Benjamin nghĩ.

Charlie ngủ thiếp đi. Nó choàng tỉnh thì thấy ai đó đang lay vai mình.

“Charlie, có cái gì ở trên tường đằng sau anh. Chữ.” Đó là giọng của Dagbert.

Charlie ngồi dậy, dụi mắt.

“Nhìn kìa! Đằng sau anh,” Dagbert thúc giục.

Charlie nhìn quanh. Bức tường phía trên giường nó hiện ra chữ “Tạm biệt”. Lọt trong một mảng ánh trăng, những mẫu tự run rẩy, lọng cọng như không chắc mình đã xếp đúng chưa.

“Naren!” Charlie nói, quên cả thì thầm. “Em đi đâu?”

Không có thông điệp trả lời. Bức tường vẫn trống không. Mảng ánh trăng biến mất và căn phòng trở lại bóng tối mịt mùng như thường lệ.

“Cái gì vậy?” Dagbert hỏi.