Dòng Sông Kỳ Bí

Chương 5: Những tấm rèm màu da cam

Sáu giờ sáng ngày Chủ nhật, bốn tiếng rưỡi trước lễ ban thánh thể lần đầu tiên của con gái Nadine của hắn, Jimmy Marcus nhận được một cú điện thoại của Pete Gilibiowski từ cửa hàng gọi tới kêu là cậu ta quá nhiều việc không kịp trở tay.

“Không kịp á?” Jimmy ngồi bật dậy trên giường nhìn đồng hồ và bảo, “Mẹ kiếp, Pete, giờ mới sáu giờ sáng. Cậu và Katie không lo nổi thì làm sao trụ được tới tám giờ khi đông người đi lễ nhà thờ?”

“Vấn đề là ở chỗ đó, Jim. Katie không có ở đây.”

“Nó không gì cơ?” Jimmy hất chăn và ra khỏi giường.

“Cô ấy không có ở đây. Đáng lẽ cô ấy phải tới từ năm rưỡi đúng không? Tôi đang để thằng bé giao bánh rán bóp còi inh ỏi chờ ở sân sau đây này, lại còn cà phê chưa kịp chuẩn bị cho…”

“Được rồi,” Jimmy nói và đi dọc theo hành lang tới phòng Katie, cảm thấy không khí lạnh lẽo của ngôi nhà dưới mỗi bước chân, những buổi sáng sớm tháng Năm vẫn buốt giá như những buổi chiều tháng Ba.

“… cho một đám công nhân xây dựng lượn mãi ở các quán bar, nhậu chán trong công viên, hút hít lăng nhăng rồi mò tới đây vào lúc năm giờ bốn mươi phút, uống nhẵn cà phê Colombia và cà phê kiểu Pháp ở cửa hàng. Bánh ngọt thì trông phát tởm. Anh trả bọn nhóc bao nhiêu tiền để chúng làm thêm tối thứ Bảy đấy hà Jim?”

“Được rồi,” Jimmy lại ừ hữ nói và đẩy cửa phòng Katie ra sau khi gõ cửa mà không nghe thấy tiếng trả lời. Giường của con bé trống không và tệ hơn nữa lại vô cùng gọn ghẽ chứng tỏ con bé không hề ngủ đây đêm qua.

“Vì hoặc là anh tăng lương cho chúng hoặc là xạc cho chúng một trận,” Pete tiếp tục. “Tôi cần thêm ít nhất một tiếng nữa để chuẩn bị trước khi có thể… Xin chào, bà có khỏe không bà Carmody? Cà phê ạ, có ngay, có ngay.”

“Tôi sẽ tới,” Jimmy nói.

“Lại nữa, tôi còn đống báo Chủ nhật vẫn đang buộc dây, các thể loại phụ trương ở trên cùng, loạn hết cả lên…”

“Tôi đã bảo là tôi đang tới mà.”

“Ồ, thật chứ, Jim? Cảm ơn nhé.”

“Pete này? Gọi cho Sal xem ông ấy có thể tới vào lúc tám giờ ba mươi thay vì mười giờ được không?”

“Vậy sao?”

Jimmy nghe thấy từ đầu dây bên kia tiếng ai bóp còi xe ô tô ầm ĩ. “Này Pete, mẹ kiếp, ra mở cửa cho thằng bé nhà Yser đi được không? Nó sẽ không thể ôm đống bánh rán chờ đó cả ngày được.”

Jimmy gác máy và đi về phía buồng tắm. Annabeth không đắp chăn, đang ngồi trên giường ngáp.

“Là cửa hàng à?” Cô vừa nói vừa ngáp.

Jimmy gật đầu. “Katie không thấy đến.”

“Vào ngày hôm nay. Ngày lễ ban thánh thể lần đầu của Nadine, mà nó lại không tới làm. Nếu nó cũng không xuất hiện ở nhà thờ thì sao?”

“Anh chắc là con bé sẽ tới thôi.”

“Em cũng chẳng biết nữa Jimmy. Nếu tối hôm qua nó say quá, sáng nay chả thèm đi làm thì ai mà biết được…”

Jimmy chỉ nhún vai. Chẳng thể nào nói chuyện với Annabeth được mỗi khi đề cập tới Katie. Đối với đứa con riêng của chồng, Annabeth chỉ có hai trạng thái, hoặc lạnh lùng, tức tối hoặc vô cùng thắm thiết như bạn bè chí cốt. Không có thứ tình cảm trung gian nào và Jimmy biết - và hơi cảm thấy có lỗi - thái độ đó của Annabeth chủ yếu bắt nguồn từ việc cô đã chứng kiến giai đoạn Katie lên bảy, vừa mất đi người mẹ thân yêu của mình và mới được gặp lại bố. Vì vậy con bé đã rộng mở và đón nhận với tấm lòng chân thành và biết ơn sự hiện diện của một người phụ nữ khác trong căn hộ trống trải của hai cha con. Thế nhưng cái chết của mẹ vẫn làm Katie bị tổn thương, nếu không phải là ở mức độ không thể bù đắp được thì cũng vô cùng sâu sắc và bất cứ lúc nào, sự mất mát đó cũng có thể len lỏi vào trái tim con bé và nó chỉ có thể trút giận, chủ yếu là lên Annabeth, một người mẹ trên thực tế nhưng không bao giờ có thể so sánh được với hồn ma của Marita.

“Trời ơi, Jimmy, anh không định ra cửa hàng đấy chứ?” Annabeth hỏi khi thấy Jimmy giữ nguyên chiếc áo thun mặc đi ngủ, chui đầu vào một chiếc áo lạnh rồi nhìn quanh tìm chiếc quần jean của mình.

“Chỉ một tiếng thôi.” Jimmy tìm thấy chiếc quần của mình cuộn dưới chân giường. “Nhiều nhất là hai tiếng. Sal sẽ tới thay ca cho Katie lúc mười giờ. Pete đang gọi cho ông ấy tới làm sớm hơn.”

“Sal đã hơn bảy mươi tuổi rồi.”

“Thì thế. Giờ này ông ấy còn ngủ được sao? Chắc mót tiểu dậy từ bốn giờ sáng rồi ngồi dán mắt vào vô tuyến cho tới giờ.”

“Bố khỉ.” Annabeth tung chăn và ra khỏi giường. “Katie đúng là của nợ. Nó sẽ lại làm hỏng nốt ngày hôm nay cho mà xem.”

Jimmy bắt đầu cảm thấy nóng gáy. “Sẽ lại là thế nào, gần đây nó có gì không đúng?”

Annabeth chỉ khẽ phẩy tay đáp lại và đi vào trong buồng tắm. “Thế anh có biết nó đang ở đâu không?”

“Chắc ở nhà Diane hay Eve gì đấy,” Jimmy nói, vẫn còn ngạc nhiên vì cái phẩy tay lạnh lùng của vợ. Annabeth, tình yêu đích thực của đời hắn, điều này hẳn không còn nghi ngờ gì nữa, không hề biết là đôi khi cô ấy có thể xử sự một cách thật lạnh lùng, chẳng thèm đoái hoài (một tính cách rất điển hình của nhà Savage) tới việc tâm trạng hắn đang không được tốt hay một khoảnh khắc nóng giận của cô có thể tàn phá người khác như thế nào. “Hay có thể ở nhà một thằng bạn trai.”

“Vậy sao? Dạo này nó đang hẹn hò với ai vậy?” Annabeth vặn vòi nước và bước vào trong bồn chờ nước nóng dần lên.

“Cái đó thì chắc em phải rõ hơn anh chứ.”

Annabeth lục tủ thuốc để tìm hộp kem đánh răng và lắc đầu bảo, “Nó đã không còn hẹn hò với Caesar Lùn từ tháng Mười một. Thế là đã mừng lắm rồi.”

Jimmy mỉm cười đi giày vào. Annabeth vẫn luôn gọi Bobby O’Donnell là Ceasar Lùn hay những từ còn tệ hơn không chỉ vì hắn ta lúc nào cũng muốn trở thành một tay anh chị, ánh mắt lạnh lùng mà còn vì hắn ta cũng thấp và mập y như diễn viên Edward G.Robinson trong phim xã hội đen. Không khí trong gia đình căng thẳng mất mấy tháng kể từ khi Katie bắt đầu qua lại với hắn ta mùa hè trước. Anh em nhà Savage nói với Jimmy là họ sẽ dạy dỗ tên khốn đó nếu cần thiết nhưng không rõ là vì lương tâm họ không cho phép tên vô lại đó theo đuổi cháu gái yêu của mình hay là vì Bobby O’Donnell ngày càng trở thành một đối thủ cạnh tranh đáng gờm của họ.

Nhưng chính Katie lại là người tự cắt đứt mối quan hệ này sau nhiều lần phải ra ngoài vì những cú điện thoại lúc ba giờ sáng và một trận ẩu đả suýt xảy ra đổ máu khi Bobby và Roman Fallow đột nhiên xuất hiện trước cửa nhà. Cuộc chia tay diễn ra sau đó vì vậy cũng khá êm ả.

Jimmy lấy làm thích thú trước việc Annabeth ghét cay ghét đắng Bobby O’Donnell vì không biết vợ mình ghét hắn ta chỉ bởi hắn ta trông giống Edward G., lại cả gan ngủ với con gái chồng hay bởi đó là một tên tội phạm nửa mùa khác hẳn các tay anh chị sừng sỏ giống như các anh trai và chồng trước của cô, người đã chết nhiều năm trước khi Marita qua đời.

Marita qua đời mười bốn năm trước trong khi Jimmy đang thụ án hai năm tại nhà tù Deer Island House ở Winthrop. Một ngày thứ Bảy trong giờ tới thăm, với bé Katie năm tuổi ngồi uốn éo trong lòng, Marita nói với Jimmy rằng trên tay cô xuất hiện một mụn ruồi ngày càng sẫm lại và cô sẽ phải đi khám bác sĩ. Chỉ để yên tâm mà thôi, cô nói. Bốn tuần sau, cô bắt đầu các đợt hóa trị. Sáu tháng sau cô vĩnh viễn ra đi và Jimmy buộc phải chứng kiến cơ thể cô dần dần kiệt quệ trong những buổi chiều thứ Bảy dằng dặc bên kia chiếc bàn gỗ màu sẫm đầy vệt cháy thuốc lá, vệt mồ hôi, vệt ố và những lời buộc tội ai oán dài như hàng thế kỷ. Tháng cuối cùng trước khi mất, Marita quá ốm nên không thể tới thăm hắn, quá yếu nên không thể viết thư cho hắn và Jimmy đành làm quen với những cuộc điện thoại mà vợ hắn thường phải bỏ dở giữa chừng vì kiệt sức hay say thuốc. Mà thường là vì cả hai.

“Anh có biết là em đang mơ cái gì không?” Cô hỏi, giọng khàn lại. “Mọi lúc đều mơ thấy nó.”

“Gì vậy em yêu?”

“Những tấm rèm cửa màu da cam. Những tấm rèm cửa lớn, dày, màu da cam…” Cô chép miệng và Jimmy nghe thấy tiếng cô nuốt nước bọt. “… bay phần phật trong gió, treo trên những dây phơi xa mặt đất, Jimmy. Bay phần phật. Chúng chả còn có thể làm gì khác được. Phần phật, phần phật, phần phật. Hàng trăm chiếc rèm cửa trên cánh đồng rộng lớn mênh mông này. Bay phần phật…”

Hắn đợi cô kể tiếp nhưng cô chỉ dừng lại ở đó và hắn không muốn Marita ngủ gật giữa câu chuyện như cô từng làm nhiều lần trước đó nên chỉ nói, “Katie thế nào?”

“Gì cơ?”

“Em yêu, Katie có khỏe không?”

“Mẹ anh chăm sóc bọn em rất tốt. Nhưng buồn.”

“Ai buồn cơ? Mẹ anh hay Katie?”

“Cả hai. Nghe này Jimmy, em phải đi thôi. Em thấy nôn nao. Em mệt quá.”

“Được rồi, cưng.”

“Em yêu anh.”

“Anh cũng yêu em.”

“Jimmy này, chúng ta chưa bao giờ có bất kỳ tấm rèm cửa màu da cam nào đúng không?”

“Đúng vậy.”

“Thật là kỳ quặc,” cô nói rồi gác máy.

Kỳ quặc: đó là những lời cuối cùng cô nói với hắn.

Đúng vậy, thật là kỳ quặc. Một mụn ruồi xuất hiện trên tay bạn từ lúc nằm nôi nhìn món đồ chơi treo cũi đột nhiên đổi màu, và rồi hai mươi tư năm sau hay gần chẵn hai năm kể từ lần cuối bạn lên giường với chồng, hai chân quấn lấy nhau, bạn đã bị người ta bỏ vào quan tài, chôn sâu dưới đất, chồng phải đứng cách đó năm mươi mét, chân tay bị cùm, cảnh sát vũ trang thúc ở hai bên.

Hai tháng sau tang lễ, Jimmy ra tù, đứng sừng sững trong căn bếp với bộ quần áo mà hắn mặc lúc vào tù, mỉm cười với đứa con xa lạ của mình. Hắn vẫn còn nhớ bốn năm đầu đời của con bé, nhưng chính con bé lại không nhớ gì cả. Nó chỉ nhớ hai năm gần nhất, hay có lẽ một vài mẩu ký ức nho nhỏ, vụn vặt về người đàn ông từng ở trong căn nhà này trước khi người ta chỉ còn cho nó gặp ông vào các ngày thứ Bảy, đối diện qua một chiếc bàn cũ kỹ trong một tòa nhà nhớp nhúa, bốc mùi xây dựng trên nền những bãi tha ma bị nguyền rủa của người da đỏ nơi những ngọn gió thì sắc như dao, những bức tường nồm chảy nước và trần nhà thì thấp lè tè. Đứng trong bếp nhìn con bé lặng lẽ quan sát mình, Jimmy chưa bao giờ có cảm giác bất lực như thế. Hắn chưa bao giờ cảm thấy, dù chỉ là phân nửa, sự đơn độc và sợ hãi nhường ấy khi hắn ngồi xuống bên cạnh Katie và nắm lấy hai bàn tay nhỏ bé của con gái, rồi như thể bay bổng ở đâu đó trên cao mà nhìn hai cha con hắn bằng con mắt của tâm tưởng. Và cái linh hồn đang bay bổng ấy thầm nghĩ: ta thấy hai sinh vật kia thật đáng thương. Hai kẻ xa lạ trong một căn bếp tồi tàn, đang ngầm đánh giá nhau và cố không trở nên căm ghét đối phương vì Marita đã mất, bỏ hai bọn họ lại với nhau mồ côi không phương hướng.

Dù muốn hay không, đứa con gái này - cái sinh linh nhỏ bé này, đang sống, đang hít thở và đang dần dần hình thành tính cách này - từ đây sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào hắn.

“Mẹ đang mỉm cười với chúng ta từ thiên đàng,” Jimmy bảo Katie. “Mẹ rất tự hào vì chúng ta. Thật đấy!”

“Bố có phải quay lại chỗ đó nữa không?” Katie hỏi.

“Không. Không bao giờ.”

“Thế bố có phải đi đâu khác không?”

Jimmy, trong khoảnh khắc đó, cảm thấy thà đi tù thêm sáu năm nữa ở một chỗ khốn kiếp như Deer Island hay tệ hơn vẫn còn hơn là ở trong bếp, đối mặt với đứa con gái xa lạ này hai mươi tư tiếng đồng hồ, với một tương lai bấp bênh, đáng sợ, với ý nghĩ rằng tuổi thanh xuân còn lại của hắn sẽ mãi mãi bị giam cầm trong cái hũ nút này.

“Không bao giờ,” hắn nói, “Bố sẽ không rời con ra nửa bước.”

“Con đói.”

Câu nói ấy làm Jimmy chết điếng toàn thân. Chúa ơi, ta sẽ phải cho con bé này ăn mỗi khi nó đói. Cho tới hết đời, lạy Chúa tôi.

“Được rồi,” hắn nói, cảm thấy một nụ cười đang giãn ra trên mặt. “Chúng ta dùng bữa thôi.”

Jimmy tới Cottage Market, cửa hàng của mình, vào lúc sáu rưỡi, lo trông coi việc thu ngân và máy quay Lô tô trong khi Pete bày đám bánh rán đặt từ các cửa hàng Dunkin’ Donuts của Yser Gaswami trên phố Kilmer, các loại bánh ngọt, bánh cannoli và bánh xúc xích cuộn bột xốp từ tiệm bánh ngọt của Tony Buca. Rảnh tay thì Jimmy lại lo đổ cà phê từ máy ra những bình cà phê giữ nhiệt ngoại cỡ, cắt dây buộc các chồng báo Globe, Herald và The New York Times số ra ngày Chủ nhật. Các phụ trương và truyện tranh thì nhét vào giữa rồi xếp gọn chúng ở phía trước giá kẹo, dưới quầy thu ngân.

“Sal bảo mấy giờ thì ông ấy đến được?”

“Sớm nhất là chín rưỡi. Xe ô tô của ông ấy teo rồi, chắc chả dùng được nữa. Thế nên ông ấy sẽ phải đổi hai lần tàu và một lần xe buýt mới tới được đây mà giờ thì còn chưa sửa soạn gì.”

“Mẹ kiếp.”

Khoảng bảy giờ mười lăm họ phải phục vụ một đám khách không ngồi lâu, thường là những người vừa tan ca đêm, phần lớn là cảnh sát ở quận 9 hay những nhân viên y tá của viện Saint Regina và một vài cô gái làm việc thêm ca một cách trái phép tại các hộp đêm bên kia đại lộ Buckingham ở khu Hạ và Rome Basin. Tất cả bọn họ trông đều mệt mỏi nhưng tinh thần thoải mái, hưng phấn, cả người toát ra một vẻ nhẹ nhõm, thư thái như thể họ vừa chiến đấu bên cạnh nhau, người đầy bùn và máu nhưng vẫn vững vàng, lành lặn.

Trong khoảng thời gian năm phút vãn khách trước khi bị một đám khách mới, những người đi dự lễ buổi sớm, tập kích, Jimmy gọi điện cho Drew Pigeon và hỏi xem Katie có ở chỗ ông ta hay không..

“Hình như con bé ở đây,” Drew nói.

“Phải không?” Jimmy nghe thấy âm điệu hy vọng trong giọng nói của mình và nhận ra rằng bên ngoài có vẻ tỉnh bơ nhưng bên trong hắn thực sự lo lắng.

“Chắc thế,” Drew nói. “Để tôi xem lại.”

“Thật là phiền anh, Drew.”

Hắn nghe thấy bước chân nặng nề của Drew âm vang dọc theo hành lang bằng gỗ trong khi tính tiền hai vé số cào cho bà Harmon và ngăn không chảy nước mắt vì nồng độ nước hoa mang tính sát thương của bà già. Hắn nghe tiếng Drew quay lại, cảm thấy tim mình đập nhanh hơn, hắn trả lại cho bà Harmon năm mươi xu và vẫy tay chào tạm biệt.

“Jimmy?”

“Tôi vẫn đang nghe đây, Drew.”

“Xin lỗi. Là Diane Cestra ngủ lại ở đây. Đang ngủ dưới sàn, trong phòng của Eve, nhưng Katie thì không thấy.”

Nhịp tim phấn khởi của Jimmy dừng lại đột ngột như thể bị ai kẹp lấy.

“Thôi, không sao.”

“Eve bảo là Katie thả hai đứa chúng nó về lúc khoảng một giờ đêm thì phải. Nhưng không nói con bé đi đâu sau đó.”

“Được rồi, không sao.” Jimmy cố giả giọng tươi tỉnh. “Tôi sẽ lần ra nó thôi.”

“Hay nó đang hẹn hò với ai?”

“Bọn con gái mười chín tuổi này, ai mà quản nổi hà Drew.”

“Đúng là thực tế phũ phàng,” Drew vừa nói vừa ngáp. “Eve ấy, Jimmy ạ, tất cả các cuộc gọi của nó không bao giờ cùng một gã, không biết nó có bao nhiêu đối tượng khác nhau, tôi cược là nó phải có một cái danh sách ở bên cạnh để khỏi nhầm lẫn.”

Jimmy cố nặn ra một điệu cười. “Này, dù sao cũng cảm ơn anh, Drew.”

“Không có gì, Jimmy, bảo trọng.”

Jimmy gác máy và nhìn chằm chằm vào bàn phím của máy thu tiền như thể nó sẽ đem lại cho hắn một câu trả lời. Đây không phải lần đầu tiên Katie ra ngoài cả đêm. Nhưng cũng chưa tới lần thứ mười. Thậm chí cũng không phải lần đầu tiên con bé trốn việc, nhưng trong bất kỳ trường hợp nào thì nó cũng luôn gọi điện thông báo. Thế nhưng, nếu nó gặp một anh chàng có vẻ ngoài giống minh tinh màn bạc hay một gã trai thành phố hấp dẫn… Jimmy vẫn chưa già tới mức quên đi thế nào là tuổi mười chín. Hắn không bao giờ để Katie nghĩ rằng hắn dung dưỡng con bé muốn làm gì thì làm, nhưng đồng thời hắn cũng không đạo đức giả tới mức lên án mọi hành vi của Katie.

Chiếc chuông treo trên cửa bằng một sợi ruy băng chợt rung lên và Jimmy ngẩng đầu nhìn tốp khách đầu tiên trong đám đông đeo tràng hạt đi lễ nhà thờ về, những ông bà già tóc màu xám xanh ùa vào cửa hàng, vừa đi vừa càu nhàu về buổi sáng lạnh như cắt, bài thuyết giảng của cha xứ và sự dơ dáy trên đường phố.

Pete thò đầu ra khỏi quầy bánh và chùi tay vào chiếc khăn bông dùng để lau bàn. Cậu ta ném một hộp găng tay vệ sinh lên nóc quầy rồi ra đứng đằng sau chiếc máy thu ngân thứ hai. Cậu nghiêng người về phía Jimmy và nói, “Chào mừng tới địa ngục,” và tốp khách thứ hai, những người theo môn phái Holy Roller, nhanh chóng theo chân tốp thứ nhất bước vào cửa hàng.

Từ gần hai năm nay, Jimmy không còn làm việc vào các sáng Chủ nhật nữa và đã quên bẵng sự nhộn nhạo chẳng khác gì sở thú những ngày ấy. Pete quả không sai. Bảy giờ sáng, lúc người bình thường còn đang ngủ, những ông bà già tóc xám xanh cuồng tín đã chen chúc tới nhà thờ Saint Cecilia dự buổi lễ sớm nhất, mang theo cơn cuồng tín của họ vào việc mua sắm ở cửa hàng Jimmy, tàn sát đám bánh ngọt và bánh rán, uống cạn cà phê, lột sạch giá trưng bày các sản phẩm sữa và đẽo hết nửa chồng báo. Họ va vào các giá để hàng, giẫm lên các túi khoai tây rán và lạc chẳng may bị rơi xuống đất. Họ gào lên mỗi khi gọi đồ ngọt hay muốn mua phiếu Lô tô, xổ số cào, thuốc là Pall Mall và Chesterfield mà đếch thèm biết mình đang xếp hàng ở vị trí nào. Rồi bất chấp một biển người tóc xanh, tóc trắng, tóc hói giận dữ chen chúc phía sau, họ cứ dông dài hỏi thăm về gia đình của Jimmy và Pete trong lúc tính toán chính xác từng xu tiền thối lại, rồi rề rà mãi mới lấy đồ đi, nhường chỗ cho đám đông sùng sục sau lưng.

Jimmy chưa từng chứng kiến đám đông nào bát nháo hơn thế kể từ lần hắn dự một lễ cưới Ailen tổ chức trong một quán bar có đồ uống miễn phí cho tất cả mọi người và khi rốt cuộc cũng có thể ngước mắt lên nhìn đồng hồ vào lúc tám giờ bốn lăm, khi những người khách cuối cùng đang đi ra cửa, thì hắn có thể cảm thấy mồ hôi đã ướt đẫm chiếc áo lót bên trong, dính chặt vào người. Hắn nhìn bên trong cửa hàng như thể có một quả bom vừa mới nổ ở chính giữa rồi quay sang Pete và cảm thấy trong lòng trào dâng một thứ tình cảm bằng hữu thân ái, giữa hai kẻ cùng hội cùng thuyền giống như đám khách lúc bảy giờ mười lăm, cùng là cảnh sát, y tá hay gái điếm, và việc cùng sống sót thoát khỏi đám khách điên rồ lúc tám giờ sáng ngày Chủ nhật dường như đã nâng tình bạn giữa hắn và Pete lên một bậc.

Pete ném cho hắn một nụ cười mệt mỏi. “Từ giờ cho tới khoảng một tiếng rưỡi nữa là lúc vãn khách. Tôi có thể ra đằng sau hút một điếu thuốc không?”

Jimmy mỉm cười, cảm giác khoan khoái, trong lòng chợt dấy lên một niềm tự hào lạ lùng đối với việc tự tay gây dựng cơ sở kinh doanh nhỏ này thành một điểm tụ tập của bà con lối xóm. “Mẹ kiếp, Pete, hút cả bao đi.”

Hắn đang sắp xếp lại các gian hàng, bày gian sữa mới, để thêm bánh rán và bánh ngọt vào khay thì chuông cửa lại rung lên và hắn nhìn thấy Brendan Harris và em trai, thằng Ray Câm, bước qua quầy thu ngân tới một góc nhỏ nơi trưng bày các sản phẩm như bánh mì, bột giặt, bánh quy và trà. Jimmy bận rộn gỡ đám giấy bóng kính bọc bánh ngọt và bánh rán và hối hận đã ra hiệu cho Pete có thể thong thả nghỉ ngơi ngoài kia, chỉ mong cậu ta lập tức quay trở lại.

Hắn nhìn lên và để ý thấy Brendan đang nhìn chằm chằm về phía quầy thu ngân như đang toan tính trấn lột hay hi vọng nhìn thấy ai đó. Trong một giây nghi ngờ phi lí, Jimmy tự hỏi ko hiểu có phải đuổi việc Pete vì đã buôn bán những mặt hàng cấm sau lưng hắn. Nhưng kiểm điểm lại, hắn nhớ là Pete đã nhìn thẳng vào mắt hắn và thề rằng sẽ không bao giờ làm việc gì hại tới sự nghiệp kinh doanh buôn bán cả đời của Jimmy. Jimmy biết là cậu ta nói thật vì trừ phi là đại bịp nếu không chỉ cần Jimmy nhìn thẳng vào mắt và hỏi một câu thật thẳng thừng thì gần như không ai có thể nói dối được hắn, hắn có thể phát hiện ra nhất cử nhất động của con mắt, dù tiểu xảo tới đâu cũng không thoát được. Đó là điều hắn đã học được khi quan sát cha mình trong lúc say rượu thường đưa ra những lời hứa hươu hứa vượn nhưng chẳng bao giờ thực hiện, quan sát tới cảnh giới nào đó thì sẽ dễ dàng phát hiện ra sự dối trá ngay khi nó xuất đầu lộ diện. Và Jimmy nhớ là Pete đã nhìn hắn không hề chớp mắt và thề là chưa từng buôn bán gì sau lưng hắn, và Jimmy tin rằng đó là sự thật.

Vậy Brendan đang tìm cái gì cơ chứ? Nó không ngu tới mức tính chuyện tới đây để ăn cướp đấy chứ? Jimmy biết cha của Brendan, Ray Harris, nên không nghi ngờ gì về tính di truyền của các loại gen đần độn nhưng cũng chả ai dốt tới mức cùng đứa em mười ba tuổi bị câm của mình đi cướp một cửa hàng tạp phẩm ở East Bucky, nằm giữa khu Hạ và khu Thượng. Với lại nếu có ai trong nhà đó có chút đầu óc thì Jimmy buộc phải miễn cưỡng thừa nhận đó là Brendan. Một đứa trẻ hơi ngượng nghịu nhưng tốt mã kinh khủng và Jimmy từ lâu đã nhìn ra được sự khác biệt giữa những kẻ im lặng vì không nhiều chữ và những kẻ im lặng vì tính tình kín đáo, luôn quan sát, lắng nghe và tiếp thu tất cả vào trong đầu của mình. Brendan chính là loại người đó, có thể nhận thấy thằng bé rất hiểu người khác, và chính phẩm chất đó khiến Jimmy cảm thấy trong lòng không yên.

Thằng bé quay đầu về phía Jimmy và bốn mắt gặp nhau, Brendan bối rối nở một nụ cười hết sức thân thiện với Jimmy nhưng nụ cười có vẻ phô trương quá như thể cậu đang thực sự toan tính điều gì sau lưng hắn.

“Có cần giúp đỡ gì không, Brendan?” Hắn hỏi.

“Dạ, không, thưa bác Marcus, cháu chỉ tìm một ít, à, một ít trà Ailen mà mẹ cháu thích.”

“Trà hiệu Barry phải không?”

“Dạ, đúng thế ạ.”

“Ở gian tiếp theo ấy.”

“À ra vậy. Cảm ơn bác.”

Jimmy trở lại phía sau quầy thu ngân vừa lúc Pete bước vào, người nồng nặc mùi thuốc lá hút vội.

“Mấy giờ thì Sal đến ấy nhỉ?” Jimmy hỏi.

“Chắc là sắp rồi.” Pete tựa vào quầy thuốc lá, bên dưới đám xổ số cào, thở dài nói tiếp. “Ông ấy rất chậm, Jimmy.”

“Sal á?”

Jimmy đang nhìn Brendan và Ray đứng ở gian hàng giữa, trao đổi với nhau bằng ký hiệu, tay Brendan kẹp một hộp trà Barry. “Thì ông ấy gần tám mươi tuổi rồi còn gì.”

“Tôi biết chứ. Chỉ để nói rằng nếu là tôi với ông ấy lo cửa hàng lúc tám giờ thay vì tôi với ông thì chả biết làm sao mà xoay xở được.”

“Thế nên tôi mới xếp ông ấy vào những giờ vắng khách. Với lại, sáng nay chính ra không phải là cậu với Sal mà là cậu với Katie.”

Brendan và Ray lúc này đã tới bên quầy thu ngân và Jimmy nhìn thấy mặt Brendan khẽ có biểu hiện khi nghe thấy tên con gái hắn.

Pete rời khỏi quầy thuốc lá và hỏi, “Chỉ có vậy thôi chứ gì, Brendan?”

“Em.. em…” Brendan lắp bắp và quay ra nhìn em trai mình. “Chắc vậy, nhưng để em hỏi lại Ray một tí.”

Hai anh em họ lại giơ tay ra hiệu cho nhau, tốc độ như tên bắn khiến Jimmy không tài nào theo kịp, ngay cả nếu hai đứa có nói thành tiếng thì với tốc độ đó hắn cũng bó tay. Khuôn mặt của thằng Ray Câm vẫn lạnh như đá, tuyệt không có biểu hiện gì trong khi tay nó thì cứ như điện giật, nhanh nhẹn không thể tả nổi. Nó vẫn luôn là một đứa trẻ kỳ lạ, Jimmy thấy nó giống mẹ nhiều hơn giống bố, sự vô cảm ngự trị trên khuôn mặt nó giống như một hành động bất cần, coi thường thiên hạ. Hắn có một lần nhắc tới điều đó với Annabeth nhưng lại bị cô trách là thiếu cảm thông với người tàn tật, nhưng Jimmy không hề nghĩ vậy, có gì đó trên khuôn mặt chết chóc của Ray và cái miệng câm như hến của nó khiến người ta chỉ muốn đập cho nó một búa.

Cuối cùng thì hai đứa cũng ngừng hoa chân múa tay và Brendan bước tới quầy kẹo lấy một thanh sô cô la Chew Chew Coleman, khiến Jimmy lại nghĩ tới cha mình và cái mùi đặc trưng quấn lấy ông trong những năm làm việc ở nhà máy kẹo.

“Và một tờ Globe nữa ạ,” Brendan nói.

“Được thôi, nhóc.” Pete nói và đặt tờ báo lên quầy.

“Vâng, à mà em… cháu tưởng Katie làm việc vào các ngày Chủ nhật chứ.” Brendan đưa cho Pete một tờ mười đô.

Pete nhướng mày ngạc nhiên khi ấn nút mở ngăn kéo đựng tiền. “Cậu đang mủi lòng trước con gái của ông chủ sao, Brendan?”

Brendan không dám nhìn Jimmy bảo, “Không, không, không.” Cậu ta cất tiếng cười nhưng nụ cười nhanh chóng biến mất. “Em chỉ lấy làm lạ vì vẫn thường thấy cô ấy ở đây ngày Chủ nhật.”

“Hôm nay là ngày em gái nó làm lễ ban thánh thể lần đầu tiên,” Jimmy nói.

“Ồ, Nadine ấy ạ?” Brendan nhìn Jimmy, mắt mở hơi quá to, miệng cười hơi quá rạng rỡ.

“Ừ, Nadine,” Jimmy nói, tò mò không hiểu sao Brendan nhớ ra tên con bé nhanh thế.

“Vậy cho cháu và Ray chúc mừng em.”

“Được rồi, Brendan.”

Brendan quay ra nhìn quầy thu ngân và gật gù nhiều lần trong khi Pete cho hộp trà và thanh kẹp vào túi. “Vậy thôi, rất vui được nói chuyện với hai người. Đi nào, Ray.”

Ray chẳng thèm quay sang nhìn anh mình nói gì nhưng vẫn bước đi khiến Jimmy nhớ ra là mọi người hay quên mất một điều về Ray: thằng bé chỉ bị câm chứ không bị điếc, hàng xóm xung quanh hẳn đã từng gặp một trường hợp như vậy trước đây.

“Jimmy này,” Pete lên tiếng khi hai anh em Brendan đã ra khỏi cửa hàng. “Tôi có thể hỏi anh một chuyện được không?”

“Nói đi.”

“Sao anh lại ghét thằng bé kia thế?”

Jimmy nhún vai. “Tôi cũng chả biết là ghét hay là gì nữa. Chỉ là… Mà này, chả lẽ cậu không thấy cái thằng nhãi bị câm kia có gì rờn rợn hay sao?”

“À thì ra là nó? Ừ đúng thế. Đúng là một thằng oắt con lập dị, lúc nào cũng nhìn người khác trừng trừng như muốn đập vào mặt người ta. Anh biết không? Nhưng tôi không định nói nó. Tôi muốn nói về Brendan cơ. Cậu ta cũng dễ thương đấy chứ. Hơi ngượng nghịu nhưng rất phải phép. Anh có nhìn cái cách cậu ta ra hiệu khi nói chuyện với em trai không? Dù chẳng cần thiết phải làm thế. Như thể nó muốn thằng bé con hiểu rằng nó không hề cô độc. Đúng là một đứa tốt bụng. Nhưng Jimmy, anh lại cứ nhìn nó như muốn gọt mũi nó rồi bắt nó nuốt chửng.”

“Không có.”

“Có.”

“Thật vậy sao?”

“Tôi nói rất thật lòng đấy.”

Jimmy nhìn về phía chiếc máy Lô tô, qua cái cửa sổ bụi bặm ra bên ngoài đại lộ Buckingham trải dài một cách ảm đạm và ẩm ướt dưới bầu trời buổi sáng. Nụ cười rụt rè khốn kiếp của Brendan Harris khiến máu trong huyết quản của hắn sôi lên, cả người ngứa ngáy khó chịu.

“Jimmy à? Tôi chỉ là muốn nói đùa với anh một chút thôi. Tôi không có ý gì đâu khi…”

“Sal đến rồi,” Jimmy nói, mắt vẫn dõi ra ngoài cửa sổ, không nhìn về phía Pete mà quan sát một người đàn ông lớn tuổi đang nặng nhọc lê chân qua đường, đi về phía họ. “Cũng thật là đúng lúc.”