Ngày Đầu Tiên

Chương 7

Paris

Keira đang bị trễ giờ, cô đã xỏ được chiếc quần jean, mặc một chiếc áo len chui cổ, vừa kịp chải lại tóc, chỉ còn mỗi việc là tìm cho ra chùm chìa khóa. Dịp cuối tuần vừa rồi cô đã không ngủ được nhiều và thứ ánh sáng ban ngày buồn tẻ đã không thể kéo cô ra khỏi giấc ngủ. Tìm ra một chiếc taxi tại Paris vào buổi sáng là cả một kỳ tích. Cô cuốc bộ tới tận đại lộ Sébastopol, xuôi xuống sông Seine và tới mỗi ngã tư lại liếc nhìn cổ tay, cô đã quên đồng hồ đeo tay ở nhà. Một chiếc ô tô lao vào làn đường dành cho xe buýt rồi chạy đến ngang tầm cô thì đỗ lại. Người điều khiển xe nghiêng người để hạ cửa kính xe và gọi tên Keira.

- Em có muốn anh chở đi đâu đó không?

- Là anh hả Max?

- Từ hôm qua đến giờ anh dã thay đổi đến thế rồi ư?

- Không ạ, nhưng em không nghĩ lại gặp anh ở đây.

- Em yên tâm đi, anh không theo dõi em đâu, đây là một khu phố nơi người ta có thể tìm ra không ít các xưởng in mà xưởng in của anh thì nằm ở con phố ngay phía sau em.

- Nếu anh đang ở gần nơi làm việc của anh rồi thì em không muốn làm phiền anh nữa.

- Ai bảo với em là anh không phải từ đó đi ra nhỉ, từ nơi anh làm việc ấy? Thôi nào, lên xe đi, anh nhìn thấy một chiếc xe buýt trong gương chiếu hậu rồi và anh sắp nhận được vài hồi còi cảnh báo đây.

Keira không đợi mời thêm, cô mở cửa xe và ngồi vào ghế bên cạnh Max.

- Kè Brandy, bảo tàng Nghệ thuật và Văn minh, mà anh nhanh lên, em đang trễ giờ quá rồi đấy.

- Dù sao anh cũng nhận được một nụ hôn chứ?

Nhưng, đúng như Max đã dự đoán, một hồi còi khiến họ giật nảy mình, chiếc xe buýt đã tông nhẹ vào thanh chắn sốc xe họ. Max vượt lên và rời khỏi làn đường riêng với tốc độ cực nhanh. Dòng xe cộ dày đặc, Keira giậm chân sốt ruột, không ngừng nhìn mặt đồng hồ trên bảng điều khiển xe.

- Em có vẻ đang rất vội thì phải?

- Em có hẹn ăn trưa... đã quá giờ hẹn mười lăm phút rồi.

- Nếu đó là một người đàn ông, anh dám chắc anh ta sẽ đợi em.

- Vâng, đó là một người đàn ông và đừng có bắt đầu nữa, ông ấy gấp đôi tuổi anh.

- Em lúc nào chẳng đánh giá cao sự chín chắn.

- Nếu đúng là vậy thì chúng ta đã chẳng hẹn hò với nhau!

- Tỉ số 1-0, bóng đang ở trung khu. Ai vậy?

- Một vị giáo sư.

- Ông ấy dạy môn gì?

- Này, lạ thật đấy, Keira nhận ra, em cũng chưa hỏi ông ấy.

- Anh không muốn trở thành người thóc mách đâu, em đi từ đầu này đến đầu kia Paris dưới trời mưa gió thế này để ăn trưa cùng một vị giáo sư mà thậm chí em còn chưa biết ông ấy dạy môn gì ư?

- Thực ra chuyện đó đâu có gì quan trọng lắm; ông ấy nghỉ hưu rồi mà.

- Và tại sao hai người lại dùng bữa trưa cùng nhau?

- Chuyện dài lắm, anh tập trung vào quan sát đường đi và chúng ta hãy thoát ra khỏi cái nút cổ chai này. Đó là về chuyện cái mặt dây chuyền của em, một viên đá do Harry tặng. Em cũng ã băn khoăn nhiều về gốc tích của viên đá. Vị giáo sư này nghĩ là viên đá đó có niên đại rất cổ. Bọn em đã thử xác định nguồn gốc của nó nhưng không thu được kết quả nào.

- Harry?

- Max, anh đang làm em phát bực với những câu hỏi của anh, Harry chỉ bằng một phần tư tuổi anh! Và thằng bé sống ở Êtiôpia.

- Thế thì hơi trẻ để là một đối thủ quan trọng. Viên đá này rất cổ à, em cho anh xem nào?!

- Em có giữ nó nữa đâu, chút nữa em mới được lấy lại đây.

- Nếu em muốn, anh có một cậu bạn, một chuyên gia vĩ đại về những viên đá cổ, anh có thể nhờ cậu ấy nghiên cứu viên đá.

- Em không nghĩ chuyện này thực sự đáng phải làm phiền đến anh bạn anh. Nhất là em tin rằng vị giáo sư này đang buồn chán, và ông ấy đã tìm ra một cái cớ để giải trí đôi chút.

- Nếu em đổi ý thì đừng ngần ngại nhé. Đây rồi, các bờ kè lúc nào cũng thoáng đãng, mười phút nữa là chúng ta đến nơi. Mà cái cậu Harry ấy tìm thấy viên đá đó ở đâu vậy?

- Tại một hòn đảo nhỏ trên miệng núi lửa nằm giữa hồ Turkana.

- Đó có thể là một viên xỉ núi lửa chăng?

- Không, vật này không thể bẻ gãy được, em thậm chí còn không thể đục được lỗ nào trên đó. Để đeo nó trên cổ, em đã phải thắt chặt dây quanh nó, và em phải công nhận độ nhẵn bóng của nó khá là hoàn hảo đến đáng lưu tâm.

- Em làm anh tò mò quá đấy. Anh đề nghị với em thế này, tối nay hai ta hãy cùng ăn tối và anh sẽ nhìn qua cái mặt dây chuyền bí ẩn của em. Anh đã rửa tay gác kiếm vài năm nay rồi, nhưng anh vẫn còn sót lại vài chiêu mà.

- Mưu toan khéo lắm, Max của em ạ, tại sao lại không nhỉ? Nhưng tối nay em phải ở nhà đối mặt với chị gái em rồi. Cả hai chúng em đều có những quãng thời gian bỏ lỡ cần bắt kịp; từ khi em về đến giờ, em không ngừng trút cơn tức giận lên đầu chị ấy. Em có hai hay ba lời nhận xét ác ý không thích đáng cần phải xin chị ấy thứ lỗi, hoặc mười hai mười ba gì đấy, thậm chí là khoảng ba chục cũng nên.

- Lời đề nghị của anh vẫn còn hiệu lực đối với tất cả những tối còn lại trong tuần. Này, chúng ta đã đến trước viện bảo tàng của em rồi. Em hầu như không đến muộn đâu, đồng hồ trên xe anh chạy nhanh mười lăm phút đấy...

Keira hôn lên trán Max rồi vội vã xuống xe. Anh những muốn dặn cô buổi chiều hãy gọi cho anh, nhưng cô đã chạy trên vỉa hè rồi.

- Xin lỗi vì đã bắt ông phải chờ, Keira hổn hển xin lỗi khi đẩy cửa ra vào. Ông Ivory?

Căn phòng trống không. Ánh mắt Keira bị thu hút bởi một tờ giấy đặt dưới bóng đèn trên bàn làm việc. Những dòng chữ đã bị gạch xóa, nhưng Keira có thể đoán ra một dãy những chữ số, “hồ Turkana”, và tên cô. Ở cuối tờ giấy, một bức ký họa mô tả khéo léo mặt dây chuyền của cô. Keira không cần bước sang bên kia bàn làm việc, càng không cần phải ngồi xuống chiếc ghế bành của vị giáo sư, và hẳn là cô cũng không cần mở ngăn kéo bàn đang ở trước mắt cô. Nhưng ngăn kéo đó không khóa và người ta không thể trở thành nhà khảo cổ mà bản tính lại không tò mò. Cô tìm thấy trong đó một cuốn sổ cũ bìa da rạn. Cô đặt nó trên mặt bàn rồi đọc, ngay từ trang đầu tiên, một bức vẽ khác, cũ hơn, bức vẽ một đồ vật hơi giống với vật cô vẫn thường đeo trên cổ. Một tiếng động khiến cô giật bắn mình. Cô vội vã xếp lại đống lộn xộn mình vừa gây ra và vừa kịp nấp xuống dưới gầm bàn, ai đó vừa bước vào phòng. Co rúm lại như một đứa trẻ tò mò nghe trộm, Keira cố gắng nín thở. Một người đàn ông đang đứng cách cô vài xăng ti mét, lớp vải chiếc quần âu ông ta đang mặc sượt qua cô. Rồi ánh sáng tắt ngúm, bóng người quay ra phía cửa, một tiếng chìa khóa xoay trong ổ và bầu không khí im lặng ngự trị trong phòng làm việc của vị giáo sư già.

Keira cần đến vài phút mới có thể định thần lại. Cô rời khỏi chỗ nấp, tiến đến trước cửa ra vào và xoay nắm đấm cửa. May thay, từ bên trong có thể mở được ổ khóa. Được tự do, cô nhảy vội ra hành lang, chạy nhanh trên đoạn đường dốc dẫn xuống tầng trệt rồi bị trượt chân ngã sóng soài. Một bàn tay hộ pháp chìa ra để kéo cô đứng dậy. Keira ngẩng đầu lên, và khi nhìn thấy khuôn mặt của Ivory, cô thốt kêu một tiếng vang dội khắp đại sảnh.

- Cô tự làm mình đau đến thế sao? Vị giáo sư vừa hỏi vừa quỳ gối.

- Không! Tôi chỉ hơi sợ thôi.

Những khách tham quan bảo tàng vừa dừng lại để quan sát cảnh tượng đều đã tản đi. Vụ rắc rối đã kết thúc.

- Với một cú trượt như vậy thì tôi hiểu được! Cô đến gãy xương mất. Điều gì khiến cô phải chạy như ma đuổi thế? Cô đến hơi trễ một chút, nhưng không đến nỗi phải xém chút nữa thì tự sát như vậy.

- Tôi xin lỗi, Keira vừa nói vừa đứng dậy.

- Cô vừa từ đâu tới vậy? Tôi đã để lại lời nhắn chỗ lễ tân hẹn cô ra vườn rồi mà.

- Tôi đã lên thẳng văn phòng để tìm ông, thấy cửa khóa trái và tôi đã nảy ra ý tưởng tồi là chạy xuống đây gặp ông.

- Đây là kiểu rủi ro xảy đến khi người ta trễ hẹn. Đi theo tôi nào, tôi đang đói muốn chết đây, ở tuổi tôi, người ta dùng bữa vào giờ cố định.

Và lần thứ hai trong ngày, Keira cảm thấy mình như một bé gái bị bắt quả tang phạm lỗi.

Họ ngồi vào chiếc bàn ngày hôm trước đã ngồi. Ivory rõ ràng là đang bực bội khi chúi mũi vào thực đơn.

- Lẽ ra họ có thể thi thoảng thay đổi các món chứ nhỉ, vẫn cứ là mấy món này. Tôi khuyên cô nên ăn thịt cừu non, chỉ có thứ đó là được nhất. Cho hai thịt đầu bắp cùi cừu non, Ivory gọi món.

Vị giáo sư giở khăn ăn ra rồi chăm chú nhìn Keira hồi lâu.

- Trước khi tôi quên mất, ông nói và lôi từ trong túi áo vest ra chiếc mặt dây chuyền, tôi trả lại cho cô thứ thuộc về cô.

Keira cầm món đồ trong tay và ngắm nghía nó hồi lâu. Cô cởi sợi dây da đang đeo quanh cổ rồi quấn quanh chiếc mặt dây chuyền bằng cách bắt chéo dây hai lần ở đằng trước, một lần ở đằng sau, chính xác như Harry đã dạy cho cô.

- Tôi phải thú nhận là ở đây nó có giá trị hơn, Ivory thốt lên và mỉm cười lần đầu tiên.

- Cảm ơn, Keira đáp, hơi ngại ngùng.

- Hy vọng không phải chính tôi đang khiến cô đỏ mặt đấy chứ? Mà tại sao cô đến muộn?

- Ngại quá, thưa giáo sư, tôi có thể bịa ra đủ kiểu lý do, nhưng sự thực là tôi đã không tỉnh giấc đúng giờ. Lý do này thật là ngu ngốc.

- Tôi ghen tị với cô quá, Ivory đáp rồi phá lên cười, tôi không thể ngủ nướng kể từ ít nhất là hai chục năm nay. Già đi không có gì là đáng cười hết, và như thể chuyện này còn chưa đủ, ngày lại kéo dài thêm. Được rồi, ngừng chuyện phiếm đi, tôi không ở đây để khiến cô bực mình với những vấn đề ngủ ngáy của riêng tôi. Nhưng tôi thích thế, thích những người nói thật; lần này tôi bỏ qua cho cô, tôi sẽ thôi không tỏ cái vẻ bực tức đang khiến cho cô mất tự nhiên nữa nhé!

- Ông cố tình làm thế sao?

- Nhất định rồi!

- Các phân tích không đem lại kết quả gì sao? Keira hỏi trong lúc đùa nghịch với cái mặt dây của mình.

- Chao ôi, chẳng có kết quả nào hết.

- Vậy là ông đã chẳng có được chút khái niệm nào về niên đại của vật này?

- Không...., vị giáo sư vừa đáp vừa lẩn tránh ánh mắt của Keira.

- Tôi hỏi ông một câu được không?

- Cô vừa hỏi rồi còn gì, cứ đặt câu hỏi đang khiến cô quan tâm thì hơn.

- Ông là giáo sư chuyên ngành gì vậy?

- Chuyên ngành tôn giáo! Rốt cuộc, không phải theo cái nghĩa mà cô đang hình dung đâu. Tôi dành cả đời để thử tìm hiểu xem những thời điểm nào trong quá trình tiến hóa của mình, con người đã quyết định tin vào một thế lực bề trên và quyết định đặt tên cho nó là Chúa tời. Cô có biết là cách đây khoảng trăm nghìn năm, gần Nazareth, người tinh khôn Homo sapiens đã chôn cất di hài của một phụ nữ tầm hai mươi tuổi, và có lẽ đó là lần đầu tiên trong lịch sử loài người? Dưới chân cô ấy có cả di hài của một đứa trẻ lên sáu. Những người tìm ra mộ phần này còn phát hiện quanh hai bộ hài cốt ấy một lượng lớn đất son. Tại một di chỉ khác, không xa nơi đó là bao, một nhóm khảo cổ khác đã khai quật được khoảng ba chục mộ phần tương tự. Tất cả các cơ thể đều được đặt nằm trong tư thế bào thai, tất cả đều được bao phủ bằng đất son, mỗi phần mộ lại có đầy đủ đồ tùy táng theo nghi thức. Đây có lẽ là những dấu hiệu cổ xưa nhất của sự sùng đạo. Phải chăng xuất phát từ nỗi đau mất đi một người thân thích là nhu cầu cấp thiết phải tăng thêm phần vẻ vang cho cái chết? Phải chăng chính vào khoảnh khắc đó nảy sinh niềm tin vào một thế giới khác nơi những người quá cố tiếp tục tồn tại?

Có vô số giả thuyết cho chủ đề này, mà chúng ta dĩ nhiên sẽ không bao giờ biết được là vào thời điểm nào trong quá trình tiến hóa của mình, con người thực sự bắt đầu tin vào Chúa trời. Vừa bị mê hoặc vừa sợ hãi trước môi sinh của mình, họ bắt đầu thần thánh hóa một thế lực khiến họ choáng ngợp. Con người cũng cần phải gán một ý nghĩa cho điều bí ẩn của bình minh và hoàng hôn, cho bí ẩn của các vị sao mọc nơi bầu trời phía trên đầu họ, cho ma thuật thay đổi các mùa trong năm, thay đổi cảnh sắc biến đổi theo mùa, cũng như cơ thể họ thay đổi theo thời gian, cho đến khi rốt cuộc phải buộc cơ thể đó trút hơi thở cuối cùng. Vì thật thú vị khi nhận thấy trong gần một trăm sáu mươi nước nơi các tác phẩm tranh vẽ trên hang động được phát hiện, tất cả những bức họa này đều có điểm tương đồng. Màu đỏ được sử dụng tràn lan, như một biểu tượng tuyệt đối của mối liên hệ với các thế giới khác. Tại sao những người có mặt trong tranh, và dù họ có sinh sống ở nơi nào trên thế giới đi nữa, vẫn cứ được khắc họa trong tư thế cầu nguyện, tay giơ lên trời? Cô thấy không, Keira, công việc của tôi không khác công việc của cô là mấy. Tôi chia sẻ với quan điểm của cô. Tôi thích góc độ cô tiến hành các nghiên cứu của riêng mình. Con người đầu tiên có thực sự là sinh vật đứng thẳng được để bước đi trong tư thế đó không? Có phải sinh vật đã quyết định đẽo gọt gỗ và đá đế biến chúng thành những dụng cụ lao động không? Là sinh vật đầu tiên đã khóc vì một người thân qua đời, ý thức được rằng kết cuộc của chính mình là điều không thể tránh khỏi chăng? Là sinh vật đầu tiên biết tin vào một thế lực mạnh hơn mình hay là sinh vật đầu tiên biết biểu lộ tình cảm của mình? Với những từ ngữ nào, những động tác cử chỉ nào, những món đồ thờ cúng nào, con người đầu tiên đã nói rằng anh ấy yêu ư? Và anh ta nói điều đó với ai, với bố mẹ anh ta, với vợ anh ta, với con anh ta, hay với một vị Chúa trời?

Những ngón tay của Keira đã buông rơi chiếc mặt dây chuyền, cô đặt hai tay lên bàn và nhìn vị giáo sư hồi lâu.

- Chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ biết được câu trả lời.

- Cô thì biết gì về chuyện ấy? Tất cả chỉ là vấn đề kiên nhẫn, quyết tâm và tinh thần cởi mở. Chỉ cần thi thoảng nhìn lại gần hơn để thấy những gì vuột khỏi chúng ta từ xa.

- Tại sao ông lại nói với tôi điều này?

- Cô đã trải qua ba năm trong đời để đào bới đất đai, tìm kiếm một vài mẩu xương hóa thạch, cái cho phép cô khám phá bí ẩn về nguồn gốc loài người. Lẽ ra chúng ta nên gặp nhau rồi mới phải và tôi cần phải kích thích trí tò mò của cô chỉ để cô bắt đầu quan sát chăm chú món đồ vật khác thường mà cô đang đeo trên cổ.

- Sự so sánh quá đỗi nực cười! Chẳng có mối liên quan nào giữa viên đá này và...

- Đó không phải là đá, cũng không phải là gỗ, và chúng ta không thể nói được đó là cái gì. Nhưng độ hoàn hảo của nó dẫn chúng ta tới chỗ không thể tin là thiên nhiên lại tạc nó thành hình như vậy! Cô vẫn thấy sự so sánh của tôi nực cười đến thế sao?

- Ông đang nói với tôi chuyện gì thế? Keira hỏi và siết chặt chiếc vòng cổ trong tay.

- Và giả sử thứ mà cô tìm kiếm từ bấy lâu nay đơn giản là đang treo lủng lẳng trên cổ cô? Từ khi trở về Pháp, giây phút nào cô cũng mơ được quay trở lại thung lũng Omo, không phải thế sao?

- Mơ ước đó biểu hiện rõ ràng đến thế ư?

- Thung lũng Omo đang nằm trên ngực cô, cô gái à. Có lẽ chí ít cũng là một trong số những bí ẩn lớn nhất mà nó chứa đựng.

Keira ngần ngừ giây lát rồi bật ra một tràng cười sảng khoái.

- Ivory, ông suýt thì lừa được tôi đấy! Ông nói thuyết phục quá đi mất, tôi nổi cả da gà lên đây này. Tôi biết trong mắt ông, tôi chỉ là một nhà khảo cổ trẻ tuổi thường xuyên trễ hẹn, nhưng lẽ nào thế! Chẳng có khái niệm cơ sở nào cho phép chúng ta tin rằng vật này có một giá trị khoa học thực sự cả.

- Tôi đặt lại câu hỏi cho cô này, vật này cổ hơn nhiều so với tất cả những gì chúng ta đã hình dung, không một kỹ thuật hiện đại nào có thể tách được mẩu nhỏ từ nó, càng không thể xác định niên đại của nó một cách chắc chắn, cô giải thích thế nào về việc nó nhẵn bóng một cách đáng chú ý đến vậy?

- Tôi thừa nhận chuyện đó hơi khó lý giải, Keira thổ lộ.

- Tôi thấy vui vì cô đã tự đặt cho mình câu hỏi đó, Keira ạ, giống như tôi từng thấy vui vì được quen biết cô. Cô thấy không, từ phòng làm việc nhỏ của tôi trên gác, niềm hy vọng được thực hiện một khám phá cuối cùng là khá mong manh, cô sẽ đồng ý là như thế. Tuy nhiên, nhờ có cô, tôi cũng đã buộc được các nhà thống kê phải nói dối.

- Vậy thì tôi vui vì điều đó, Keira nói.

- Tôi không nói về đồ vật này. Việc xác định tông tích của nó là tùy ở cô.

- Nhưng ông đang nói đến khám phá nào vậy?

- Sao nhỉ, chuyện đã gặp được một phụ nữ kỳ lạ!

Ivory đứng dậy rồi rời khỏi bàn. Keira nhìn ông đi xa dần, ông quay người lại lần cuối cùng và phác một cử chỉ chào tạm biệt cô bạn mới.

Luân Đôn

Chúng tôi chỉ còn gần một tuần nữa để nộp hồ sơ ứng viên. Dự án này cuối cùng đã chiếm trọn thời gian của tôi. Walter và tôi, chúng tôi đã hình thành thói quen gặp nhau vào cuối ngày, tại thư viện của Học viện, tôi đưa hắn xem bản tổng hợp những công việc đã hoàn thành trong ngày; sau khi đã đọc cho hắn nghe bản văn của tôi – chúng tôi thường xuyên thảo luận – chúng tôi đến ăn tối tại một nhà hàng Ấn nhỏ xinh trong khu phố. Cô phục vụ bàn có một kiểu áo hở vai ấn tượng mà cả tôi lẫn Walter đều không thể thờ ơ. Sau những bữa tối mà trong suốt quãng thời gian ấy, cô phục vụ bàn đó không bao giờ mảy may liếc đến chúng tôi, chúng tôi tiếp tục cuộc trò chuyện trong lúc đi bộ dọc bờ sông Tamise. Ngay cả khi trời đổ mưa vào đúng giờ hẹn, chúng tôi cũng không từ bỏ cuộc đi dạo buổi tối này.

Nhưng tối hôm đó, tôi đã dành cho kẻ đồng hội đồng thuyền của mình một điều bất ngờ thú vji. Vì chiếc MG của tôi đang giở thói đỏng đảnh bà già từ dịp cuối tuần trước một chiếc taxi đưa chúng tôi ra ga Euston, không xa ga King’s Cross là bao. Chúng tôi đang trễ giờ và thay vì trả lời cho câu hỏi thứ hai mươi của Walter – “Nhưng chúng ta đang đi đâu thế này?” -, tôi lôi hắn vào một cuộc chạy hết tốc lực về phía ke ga nơi chuyến tàu của chúng tôi khởi hành. Đoàn tàu bắt đầu rung lên, tôi đẩy Walter lên toa cuối cùng và chỉ kịp đến lượt mình cũng leo lên. Những thanh ray đã nghiến kèn kẹt dưới giá chuyển hướng.

Vùng ngoại ô Luân Đôn nhường chỗ cho vùng thôn quê đến lượt mình cũng mờ nhạt dần trước cảnh ngoại ô Manchester.

- Manchester à? Chúng ta đến Manchester vào lúc mười giờ tối làm gì? Walter hỏi.

- Ai nói với anh là chúng ta đã đến đích nào?

- Người soát vé sẽ thông báo: “Ga cuối cùng mọi người đều phải xuống” chẳng hạn!

- Còn những chuyến đổi tàu liên vận thì sao hả Walter thân mến? Nào, hãy cầm lấy chiếc túi đeo vai của anh đi và tới đây, chúng ta chỉ còn chưa đầy mười phút nữa thôi.

Cuộc chạy mới xuyên qua những đường hầm của nhà ga và cả hai chúng tôi đã lên được chiếc tàu chợ lần này đi về phương Nam.

Ga xép Holmes Chapel chỉ chào đón hai người chúng tôi buổi tối hôm đó, và vị trưởng ga đã nhanh chóng phóng thích đoàn tàu nơi chúng tôi vừa bước xuống bằng một hồi còi. Đoàn xe lửa đã biến mất. Tôi nhìn đồng hồ đeo tay, chờ chiếc xe đến đón chúng tôi. Rõ ràng là chiếc xe mà tôi chờ đợi đã trễ hẹn.

- Được lắm, giờ là mười giờ rưỡi, cả bữa tối tôi mới chỉ nuốt cái bánh kẹp dưa chuột ghê người này và món gà mái đông lạnh mà anh đã hào phóng tặng cho tôi, chúng ta đang ở giữa nơi đồng không mông quạnh, và ở đây cái từ này đúng toàn bộ luôn. Anh có định nói với tôi hay là không nào, chúng ta đang làm cái quái gì tại cái nơi khỉ ho cò gáy này?

- Không!

Walter nổi giận và tôi phải thú nhận rằng tôi đang thấy thích thú khi nhìn hắn cáu tiết. Cuối cùng cũng xuất hiện trên con đường nhỏ nằm dọc theo nhà ga một chiếc break cũ kỹ hiệu Hillman đời 1957 mà tôi ngay lập tức nhận ra, vậy là Martyn đã không quên cuộc hẹn mà tôi đã ấn định với anh ngày hôm trước qua điện thoại.

- Xin lỗi, anh nói khi xuống xe bằng cách nhảy qua cửa lật đằng sau. Tôi đến muộn quá, nhưng tất cả chúng tôi đều tập trung tư tưởng vào cái điều dẫn các vị đến đây tối nay và tôi đã không thể tự do sớm hơn. Lên xe nhanh đi, nếu các vị không muốn lỡ mất sự kiện! Tôi buộc phải xin các vị lên qua đường này, anh bạn vong niên cũng là đồng nghiệp của tôi nói thêm và chỉ vào tấm cửa lật. Mấy cánh cửa tệ hại của chiếc xe này không mở ra nữa từ khi những tay nắm cửa nằm lại trong tay tôi và không còn nhiều mảnh rời xa trong lúc xe chạy.

Chiếc xe chỉ còn là một đống tôn han gỉ, kính chắn gió đã nứt dọc theo chiều dài. Walter hỏi bằng một giọng bồn chồn là liệu chúng tôi có đi xa không. Một vài lời giới thiệu ngắn gọn về các sử dụng rồi Martyn chui vào buồng lái trước tiên, bằng cách bước qua ghế sau. Một khi đã ngồi sau vô lăng, anh yêu cầu Walter vui lfong dùng hết sức kéo tấm cửa lật để đóng nó lại, nhưng dù thế nào cũng không nên kéo quá mạnh. Chúng tôi rời khỏi ga xép và lao đi trên những con đường xóc nảy của hạt Macclesfield.

Walter phải từ bỏ ý định bám vào dây cầm ô, chiếc đinh tán cuối cùng cố định nó vừa không gượng nổi nữa. Tôi nhìn thấy hắn ngập ngừng một lát rồi bỏ chiếc dây vào túi.

- Tôi nghĩ là ổn rồi đấy, hắn nói trong khi chiếc break bạt khỏi đường đi theo một vòng cung dài, gà mái và dưa chuột kết hợp cho đến tận ngày số.

- Thứ lỗi cho tôi vì đã lái nhanh như thế, nhưng không nên bỏ lỡ chuyện này với bất kỳ lý do nào. Các vị bám chắc đi, chúng ta sẽ tới nơi nhanh thôi.

- Mà anh muốn tôi bám vào cái gì kia? Walter vừa kêu vừa vung chiếc dây cầm ô lên. Vả lại rốt cuộc chúng ta đang ở đâu thế?

Martyn nhìn tôi ngạc nhiên, nhưng tôi ra hiệu cho anh là đừng nói gì cả. Walter lườm tôi đến cháy cả mắt khi ra khỏi mỗi đoạn rẽ; hắn ngừng càu nhàu khi đột nhiên hiện ra trước mắt chúng tôi trạm thu phát tín hiệu viễn vọng của đài thiên văn Jodrell.

- Thật không may! Walter rít lên, tôi chưa bao giờ được nhìn thấy đài thiên văn nào gần đến vậy.

Đài thiên văn Jodrell thuộc khoa Thiên văn của Đại học Manchester. Tôi đã ở đó vài tháng trong thời gian học tập và kết bạn với Martyn, người tiếp tục sự nghiệp của mình tại đây và ngay khi chưa tốt nghiệp đã kết hôn, cùng một cô nào đó tên là Éléonor Arwell, người thừa kế những xưởng chế biến sữa cùng tên trong vùng. Éléonor đã bỏ rơi Martyn sau năm năm chung sống trong một cuộc hôn nhân có vẻ như mặn nồng. Cô chuyển đến sống tại Luân Đôn cùng với cô bạn thân nhất của Martyn, chính người đó cũng thừa kế một cơ nghiệp trong thế giới tài chính vào thời ấy có vẻ còn vững vàng hơn cơ nghiệp về sữa. Dĩ nhiên, Martyn và tôi không bao giờ nhắc đến chủ đề tế nhị này. Đài thiên văn Jodrell hết sức độc đáo so với các công trình khác cùng loại. Một hình parabol khổng lồ có đường kính bảy mươi sáu mét cấu thành nên phần chính. Được đóng phía trên một vòm bán nguyệt bằng kim lọa đạt đỉnh cao nhất cách mặt đất sáu mươi bảy mét, chiếc kính thiên văn vô tuyến này đứng thứ ba về độ lớn xét trên phạm vi toàn thế giới. Ngoài ra, đài thiên văn còn được trang bị thêm ba chiếc kính viễn vọng khác kích thước nhỏ hơn. Jodrell thuộc về một hệ thống thu phát tín hiệu phức tạp trên lãnh thổ Anh, toàn bộ hệ thống được hợp nhất với nhau để thu vô số các thông tin đến từ không gian. Mạng lưới được đặt tên là Merlin[10]. Chao ôi, hoàn toàn không phải là để vinh danh vị pháp sư nắm giữ trong tay phép thuật, mà bởi những chữ cái đầu trong tên của một loạt các nhà bác học đã tạo nên từ viết tắt này. Nhiệm vụ chính của những nhà thiên văn làm việc tại Jodrell chủ yếu là vây dồn những cục thiên thạch, chuẩn tinh, nguồn phát xạ thiên hà, những thấu kính hấp dẫn đối với những ranh giới giữa các dải thiên hà, và hơn thế nữa, là dò tìm những lỗ đen hình thành khi Vũ trụ sinh ra.

[10] Tên chàng pháp sư nhân vật chính trong xê ri Merlin và vương quốc Camelot.

- Chúng ta sắp được thấy một lỗ đen ư? Walter bỗng nhiên thốt lên đầy hào hứng.

Martyn mỉm cười và tránh không trả lời câu hỏi này.

- Ở Atacama thế nào? anh hỏi tôi trong khi Walter cố gắng ra khỏi xe một cách khó nhọc.

- Thú lắm, một nhóm đặc biệt, tôi trả lời với một nỗi hoài niệm mà người đồng nghiệp của tôi ngay lập tức cảm nhận được.

- Tại sao cậu không quay lại chỗ chúng tôi nhỉ? Năng lực của chúng tôi không lớn mạnh được đến thế, nhưng cậu cũng biết nhóm ở đây có rất nhiều phẩm chất tốt mà.

- Tôi không nghi ngờ điều ấy, Martyn ạ, và tôi sẽ không bao giờ cho phép mình nói với anh rằng các đồng nghiệp của tôi tại Atacama nổi trội hơn các đồng nghiệp của anh tại Jodrell về điểm nào. Tôi nhớ bầu không khí của Chilê, nỗi cô đơn của các cao nguyên, sự thuần khiết của màn đêm. Nhưng ngay lúc này, chúng tôi đang có mặt ở đây và tôi cảm ơn anh về điều đó.

- Nào, Walter đang đứng đợi trên bãi cỏ càu nhàu, chúng ta sẽ đi xem cái lỗ đen đó chứ, cso hay là không nào?

- Có thể gọi như vậy, tôi nói và đến lượt mình ra khỏi chiếc break trong khi Martyn không thể nén được một tràng cười ha hả.

Các đồng nghiệp của Martyn chào đón chúng tôi rồi nhanh chóng quay trở lại với công việc. Walter hy vọng được nhìn qua mắt ngắm của một ống kính khổng lồ, hắn thất vọng khi tôi thông báo rằng hắn sẽ phải bằng lòng với việc quan sát hình ảnh trên các màn hình máy tính trong căn phòng chúng tôi vừa bước vào. Có thể nhận thấy rõ ràng nỗi phấn khích đang bao trùm căn phòng. Tất cả các nhà khoa học có mặt đều gắn chặt mắt vào bảng điều khiển máy tính cá nhân. Thi thoảng, có thể nghe thấy từ đằng xa, tiếng cọt kẹt của cột thu phát tín hiệu đang xoay vài milimét trên những trục khổng lồ bằng kim loại của nó. Rồi bầu không khí im lặng bao trùm trở lại và mỗi người lại lắng nghe theo cách của riêng mình những tín hiệu đang truyền đến chúng tôi từ điểm gốc của thời gian.

Để giải thoát các đồng nghiệp của Martyn đang bị quấy rầy bởi hàng loạt những câu hỏi của Walter, tôi kéo hắn ra ben ngoài tòa nhà.

- Tại sao họ lại bồn chồng như vậy? Hắn thì thào.

- Ở đây anh có thể nói chuyện bình thường mà không sợ làm phiền họ. Tối nay, tất cả bọn họ đều hy vọng được quan sát sự hình thành của một lỗ đen. Đó là một sự kiện hiếm hoi trong cuộc đời của một chuyên gia khoa thiên văn vô tuyến.

- Anh định nói về những lỗ đen trước các thành viên của ban giám khảo hả?

- Dĩ nhiên.

- Vậy thì nói đi, tôi đang lắng nghe anh đây.

- Lỗ đen biểu thị cho điều chưa tường tận cuối cùng đối với một nhà thiên văn, ngay cả ánh sáng cũng không thoát được nó.

- Vậy thì làm thế nào các anh biết được là chúng tồn tại?

- Chúng được hình thành trong quá trình tự co lại và tự hút vào trung tâm cuối cùng của một ngôi sao lớn, lớn hơn mặt trời của chúng ta nhiều. Di hài của ngôi sao này nặng đến nỗi không một dạng thể tự nhiên nào có thể ngăn được nó sụp đổ dưới trọng lượng riêng của nó. Khi vật chất lại gần một lỗ đen, nó bị hút vào kêu vang như một quả chuông. m thanh này truyền đến chúng ta là một nốt si giáng. Năm mươi bảy quãng tám dưới nốt đô trung. Anh có hình dung được là chúng ta có thể nghe được âm nhạc phát ra từ tận cùng vũ trụ không?

- Cái này hầu như không thể tin được, Walter thì thầm.

- Còn chuyện này khó tin hơn nữa kìa. Xung quanh lỗ đen, thời gian và không gian đều biến dạng, tiến trình của thời gian chậm lại. Một con người nếu có khả năng chu du đến ngoại vi của một lỗ đen mà không bị nuốt vào đó sẽ trở lại trên mặt đất trẻ hơn nhiều so với những người mà anh ta bỏ lại đằng sau vào thời điểm xuất phát.

Khi chúng tôi quay lại căn phòng nơi các đồng nghiệp của tôi đang rình đợi sự xuất hiện của hiện tượng được xiết bao mong đợi đó. Walter hoàn toàn không còn như trước nữa. Hắn nhìn chăm chú vào các màn hình đang hiện lên những chấm nhỏ li ti, nhân chứng của những thời kỳ xa xưa khi con người còn chưa tồn tại. Vào lúc 3h07, căn phòng nơi chúng tôi đang ngồi rung chuyển bởi tiếng hò reo vang dậy khiến bốn bức tường rung bần bật. Martyn, vốn là một người khá điềm tĩnh, đã nhảy dựng lên đến suýt thì ngã ngửa. Bằng chứng đang hiển thị trên các màn hình máy tính là không thể chối cãi; ngày mai cộng đồng các nhà thiên văn trên khắp thế giới sẽ vui mừng vì phát hiện của nhưng đồng nghiệp người Anh của tôi, và tôi nghĩ đến những người bạn của mình trên cao nguyên Atacama có lx cũng đang nhớ đến tôi.

Walter bị mê hoặc bởi cái điều tôi đã cho hắn biết về sự biến dạng của thời gian. Ngày hôm sau, khi Martyn lái xe đưa chúng tôi quay trở lại ga xép Holmes Chapel, anh giải thích với Walter rằng mơ ước duy nhất của anh là một ngày nào đó sẽ xác định được một lỗ sâu. Vừa mới bình phục lại sau khi biết về sự tồn tại của những lỗ đen, Walter thoạt tiên còn ngỡ đó là một câu đùa trước khi nài nỉ Martyn cung cấp thêm cho hắn thông tin. Martyn khó khăn lắm mới duy trì được chiếc break già nua của anh đi trên quỹ đạo thẳng, tôi tiếp sức cho anh và giải thích với Walter rằng những lỗ sâu là những con đường tắt trong khoảng không – thời gian, như những cánh cửa giữa hai điểm của Vũ trụ và nếu một ngày nào đó chúng ta có thể xác lập bằng chứng về sự tồn tại của chúng, vậy thì chúng ta sẽ có thể tiến những bước đầu tiên về phía khả năng du hành trong không gian nhanh hơn ánh sáng.

Trên sân ga, Walter ôm ghì Martyn và xúc động khẳng định với anh rằng anh đang theo đuổi một sự nghiệp thật tuyệt vời. Rồi hắn lôi chiếc dây cầm ô từ trong túi ra và trang trọng trả lại nó cho chủ nhân.

Và trên chuyến tàu trở về Luân Đôn, trong khi Manchester xa dần, Walter tâm sự với tôi rằng nếu những thành viên của Quỹ Walsh không chọn dự án của chúng tôi, theo hắn đó sẽ là một sự bất công khủng khiếp.