Percy Jackson Tập 2: Biển Quái Vật

Chương 14: Chúng tôi gặp con cừu của số phận

Khi bạn nghĩ về “đảo quái vật”, bạn sẽ nghĩ ngay tới những dãy đá lởm chởm và xương rải đầy trên bờ biển giống như đảo của Ba chị em nhà Siren vậy.

Nhưng đảo của Cyclops lại không có gì giống như vậy. Ý tôi là, được rồi, nó có một cây cầu bằng dây thừng băng ngang qua vực thẳm, đó không phải là một dấu hiệu tốt. Bạn có thể dựng một tấm bảng có dòng chứ, CÓ CÁI GÌ ĐÓ XẤU XA ĐANG SỐNG Ở ĐY. Nhưng trừ việc đó ra nơi này nom rất giống một tấm bưu thiệp về vùng biển Caribean. Nó có những cánh đồng xanh mướt, những hàng cây nhiệt đới và những bãi biển trắng tinh khôi. Khi chúng tôi chèo về phía bờ biển, Annabeth hít căng không khí trong lành. “Bộ Lông Cừu Vàng,” cô ấy thốt lên.

Tôi gật đầu. Tôi chưa từng nhìn thấy Bộ Lông Cừu Vàng bao giờ nhưng tôi có thể cảm nhận được sức mạnh của nó. Tôi có thể tin rằng nó sẽ chữa lành bất cứ thứ gì, thậm chí cả cái cây bị đầu độc của Thalia. “Nếu chúng ta lấy nó đi, hòn đảo này sẽ chết phải không?”

Annabeth lắc đầu. “Nó sẽ mất dần đi thôi. Quay lại trạng thái ban đầu của nó.”

Tôi thấy hơi có lỗi khi làm hỏng thiên đường này nhưng tôi tự nhắc nhở rằng chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Trại Con Lai đang gặp rắc rối. Và Tyson... Tyson vẫn sẽ ở bên chúng tôi nếu đó không có cuộc tìm kiếm này.

Trên bãi cỏ dưới khe núi, vài tá cừu đang gặm cỏ. Nom chúng rất thanh thản. Nhưng chúng quá to lớn – có kích thước của một con hà mã. Chỉ cần vượt qua chúng là có một con đường mòn dẫn thẳng vào trong những quả đồi. Phía trên cùng con đường, gần gờ của hẻm núi là một cái cây sồi to lớn mà tôi đã nhìn thấy trong các giấc mơ. Có thứ gì đó tỏa sáng lấp lánh trên các cành cây của nó.

“Điều này thật quá dễ dàng,” tôi nói. “Chúng ta chỉ cần leo lên và lấy nó đi.”

Mắt của Annabeth nheo lại. “Chắc chắn là có người canh đấy. Một con rồng hoặc...”

Bỗng nhiên một con nai xuất hiện từ những bụi cây. Nó chạy từng bước ngắn vào đồng cỏ, nhằm tìm kiếm thức ăn, và tất cả lũ cừu đồng loạt kêu be be, sau đó đổ xô về phía con vật. Việc đó xảy ra quá nhanh khiến con nai ngần ngừ và mất hút trong một biển len và móng giầy xéo.

Cỏ và những búi lông bay trong không khí.

Một giây sau, tất cả lũ cừu bỏ đi, trở lại với việc đi thơ thẩn đầy thanh thản thường ngày. Nơi chú nai đứng đó chỉ là một đống xương trắng.

Annabeth và tôi nhìn nhau.

“Chúng giống lũ cá piranhas ấy nhỉ,” cô ấy cất tiếng.

“Piranhas có lông. Chúng ta sẽ...”

“Percy!” Annabeth hổn hển nói, túm chặt lấy tay tôi. “Nhìn kìa.”

Cô ấy chỉ xuống bãi biển, chỉ ngay dưới bãi cỏ nơi đàn cừu đứng, nơi một con thuyền nhỏ mắc cạn... một chiếc thuyền cứu sinh khác từ con tàu CSS Birmingham.

Chúng tôi quyết định không có cách nào cả để vượt qua lũ cừu ăn thịt người. Annabeth muốn tàng hình, lặng lẽ tiếp cận con đường và chộp lấy Bộ Lông Cừu Vàng. Nhưng cuối cùng tôi cũng thuyết phục cô ấy rằng có thứ gì đó vẫn không ổn. Lũ cừu sẽ đánh hơi được cô ấy. Kẻ canh gác khác sẽ xuất hiện. Một thứ gì đó. Và nếu điều đó xảy ra, tôi lại ở quá xa để có thể giúp cô ấy được.

Hơn nữa, việc đầu tiên của chúng tôi là tìm kiếm Grover và ai đã tới bờ biển này trên con thuyền cứu sinh – người đang được chúng tôi cho rằng họ đã vượt qua được đàn cừu. Tôi quá lo lắng để nói ra điều mà tôi hi vọng thầm kín... rằng Tyson có thể vẫn còn sống.

Chúng tôi neo con tàu Queen Anne’s Revenge ở phía sau hòn đảo, nơi có những vách đá dựng đứng phải cao tới sáu mươi mét. Tôi cho rằng con tàu sẽ khó bị phát hiện ở đó.

Những vách đá nom có thể trèo được – vừa đủ khó so với bức tường dung nham khi còn ở trại. Ít nhất chỗ đó cũng không có đàn cừu. Tôi hy vọng Polyphemus không nuôi lũ dê núi ăn thịt người.

Chúng tôi chèo chiếc thuyền cứu sinh tới chân núi và leo lên phía trên một cách chậm chạp. Annabeth đi trước vì cô ấy là người leo núi giỏi.

Chúng tôi đã suýt chết sáu hoặc bảy lần – mà tôi nghĩ rằng như vậy đã quá tốt rồi. Một lần, tôi mất kiểm soát và phát hiện chính mình đang đung đưa chỉ với một tay bám vào gờ của vách đá cách mặt nước biển đầy đá khoảng mười lăm mét. Nhưng rồi tôi phát hiện thấy một cái để bíu tay vào khác và tiếp tục leo lên. Một phút sau, Annabeth va phải mảng rêu trơn tuột và bị trượt chân. May mắn thay, cô ấy tìm được thứ để trụ lại. Không may, cái thứ đó lại chính là mặt tôi.

“Xin lỗi cậu,” cô ấy lầm bầm.

“Không sao,” tôi cằn nhằn, dù tôi không bao giờ thực sự muốn biết mùi vị đôi giày đế mềm của Annabeth ra sao.

Cuối cùng, khi những ngón tay của tôi có cảm giác như chì bị nung chảy và các cơ cánh tay đang run rẩy vì kiệt sức, chúng tôi đã tự kéo được chính mình trên đỉnh của vách đá và nằm vật xuống.

“Ưư,” tôi than thở.

“Ôi,” Annabeth rên rỉ.

“Grừ!” một giọng khác rống lên.

Nếu tôi không quá mệt, tôi có thể đã leo thêm được sáu mươi mét nữa. Tôi nhìn vòng quanh nhưng không thể nhìn thấy ai đã nói.

Annabeth lấy tay mình bịt miệng tôi và chỉ cho tôi thấy.

Cái gờ đá mà chúng tôi đang ngồi còn hẹp hơn cả tôi nhận ra. Nó hạ thấp dần về phía mặt đối diện và đó là nơi mà tiếng nói kia vọng lên – ngay dưới chúng tôi.

“Ngươi là một đứa nóng nảy,” một giọng trầm trầm gầm lên.

“Nghi ngờ điều ta nói sao!” giọng của Clarisse, không còn nghi ngờ gì nữa. “Hãy trả lại thanh gươm cho ta, bà ta sẽ chiến đấu với ngươi!”

Con quái vật rống lên cười.

Annatbeh và tôi trườn tới phía rìa của vách núi. Chúng tôi đang ở đúng phía trên lối ra vào hang của Cyclops. Ngay dưới chỗ chúng tôi là Polyphemus và Grover – vẫn đang mặc bộ đầm cưới. Clarisse đang bị trói, bị treo lộn ngược xuống một cái nồi nước đang sôi. Tôi hy vọng rằng có thể thấy được Tyson cũng ở dưới đó. Thậm chí nếu như cậy ấy gặp nguy hiểm, thì ít nhất tôi cũng biết được cậu ấy đang còn sống. Nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy có cậu ấy.

“Hừm,” Polyphemus trầm ngâm. “Nên ăn đứa con gái to mồm này ngay hay chờ tới tiệc cưới đây. Cô dâu của ta nghĩ sao?”

Hắn quay về phía Grover – người lùi lại và gần như vấp ngã với đuôi chiếc đầm cưới đã hoàn tất. “Ồ, ừm. Giờ em không đói, cưng à. Có lẽ…”

“Ngươi vừa nói cô dâu hả?” Clarisse hỏi gặng. “Ai – Grover ư?”

Đứng kế bên tôi, Annabeth càu nhàu. “Im ngay. Cô ta phải im ngay.”

Polyphemus nhìn trừng trừng. “’Grover’ là cái gì?”

“Thần rừng!” Clarisse hét lên.

“Ôi!” Grover rên rỉ. “Bộ não của đứa đáng thương kia đang bị hơi nước nóng từ nồi nấu chín. Kéo cô ta xuống đi, anh yêu!”

Mí mắt của Polyphemus thu hẹp lại phía trên con mắt trắng đầy hiểm ác của hắn, như thể hắn đang cố gắng nhìn Clarisse kĩ càng hơn.

Tên Cyclops này thậm chí nom còn kinh khủng hơn trong giấc mơ của tôi. Phần vì mùi ôi thiu của hắn giờ đang ở rất gần. Phần vì hắn đang mặc đồ cưới – một cái váy Scotland thô thiển và một chiếc khăn quàng vai được may dính vào chiếc áo tuxedo mày xanh da trời nhạt, như thể đã chuẩn bị kỹ cho toàn bộ đám cưới.

“Thần rừng cái gì?” Polyphemus đầy ngờ vực. “Thần rừng ăn rất ngon. Ngươi mang tới cho ta một thần rừng sao?”

“Không, đồ ngu!” Clarisse kêu ầm lên. “Thần rừng đó còn gì! Grover! Kẻ đang mặc chiếc đầm cưới ấy!”

Tôi chỉ muốn vặn gãy cổ Clarisse nhưng đã quá muộn. Tất cả những gì tôi có thể làm là quan sát khi Polyphemus quay lại, xé toạc chiếc mạng cô dâu của Grover và phát hiện thấy bộ tóc xoăn, chòm râu lún phún bẩn thỉu cùng đôi sừng bé xíu của cậu ta.

Polyphemus thở nặng nhọc, cố gắng kìm nén cơn giận dữ. “Ta nhìn không được rõ lắm,” hắn gầm gừ. “Từ khi một kẻ anh hùng khác đâm vào mắt ta từ nhiều năm trước. Nhưng NGƯƠI – KHÔNG – PHẢI – LÀ QUÝ – CÔ – CYCLOPS!”

Tên Cyclops túm lấy chiếc đầm của Grover và xé nó ra. Ngay bên dưới là hình ảnh quen thuộc của Grover trong chiếc quần jeans và áo phông. Cậu ấy kêu lên lắp bắp và vội thụp xuống khi con quái vật vụt mạnh qua đầu cậu.

“Dừng lại!” Grover cầu xin. “Đừng ăn sống tôi! Tôi. Tôi có một công thức nấu ăn rất tuyệt!”

Tôi với lấy thanh kiếm của mình nhưng Annabeth xuỵt ngay, “Gượm đã!”

Polyphemus đang ngần ngừ. Trong tay hắn vẫn cầm một tảng đá, sẵn sàng đập vào kẻ suýt làm cô dâu.

“Công thức nấu ăn á?” hắn hỏi Grover.

“Ồ, đ-đ-úng vậy! Anh không muốn ăn sống tôi mà. Anh sẽ mắc phải E.coli, ngộ độc thịt và nhiều thứ kinh khủng khác. Thịt tôi sẽ ngon hơn rất nhiều nếu nướng với lửa nhỏ cùng nước xốt xoài chua ngọt. Anh có thể đi lấy ngay xoài bây giờ, ở ngay dưới khu rừng ấy. Tôi cứ chờ ở đây nhé.”

Con quái vật cân nhắc. Trái tim tôi đập liên hồi vào xương sườn. Tôi đoán mình sẽ chết nếu tôi tấn công. Nhưng tôi không thể để con quái vật này giết chết Grover được.

“Thần rừng nướng giòn với nước xốt xoài chua ngọt,” Polyphemus ngẫm nghĩ. Hắn nhìn lại Clarisse vẫn đang bị treo dốc ngược xuống nồi nước sôi. “Ngươi cũng là một thần rừng, phải không?”

“Không, ngươi đúng là đồ phân thú vật quá khổ!” Cô ta kêu rống lên. “Ta là một cô gái! Con gái của thần Ares! Cởi trói cho ta ngay, ta có thể xóe toạc đôi tay ngươi ra đấy!”

“Xé toạc tay của ta ư?” Polyphemus nhắc lại.

“Và tọng chúng vào họng ngươi!”

“Ngươi điên rồi.”

“Thả ta xuống!”

Polyphemus chộp lấy Grover như thể cậu ấy là một chú cún con bướng bỉnh. “Giờ phải thả cho lũ cừu đi ăn cỏ đã. Đám cưới hoãn tới tối nay. Rồi chúng ta sẽ làm thịt thần rừng cho món ăn chính!”

“Nhưng …anh vẫn cưới sao?” Grover kêu lên đau đớn. “Ai là cô dâu cơ chứ?”

Polyphemus nhìn về phía nồi nước đang sôi.

Clarisse kêu lên đầy uất ức. “Ôi, không! Ngươi không thể nghiêm túc như vậy được. Ta không…”

Trước khi Annabeth và tôi có thể làm bất cứ điều gì, Polyphemus đã giựt tung cô ta ra khỏi dây thừng, như thể cô ta là một quả táo chín vậy và ném cô ta cùng Grover vào sâu trong hang. “Cứ thoải mái đi! Ta sẽ trở lại vào lúc mặt trời lặn cho sự kiện lớn này!”

Rồi tên Cyclops huýt sáo, một đám đông cả dê và cừu – nhỏ hơn loại ăn thịt người – ào ra khỏi hang và băng qua chủ nhân của chúng. Khi chúng ra tới đồng cỏ, Polyphemus vỗ về lên lưng vài con và gọi tên chúng là Beltbuster, Tammany, Lockhart và vân vân…

Khi con cừu cuối cùng đã núng nính đi ra khỏi, Polyphemus lăn tảng đá ra phía trước cửa một cách dễ dàng như thể tôi đóng cánh cửa tủ lạnh vậy, bịt kín cả tiếng rên la của Clarisse và Grover ở bên trong.

“Xoài à,” Polyphemus tự cằn nhằn. “Xoài là thứ gì nhỉ?”

Hắn đi xuống núi trong bộ đồ chú rể màu xanh, để lại chúng tôi với một nồi nước đang sôi và một tảng đá nặng sáu tấn.

Chúng tôi cố gắng đẩy nó trong nhiều giờ, nhưng điều đó cũng không ích gì. Tảng đá không hề nhúc nhích. Chúng tôi hét vào các vách nứt, gõ lên vách đá, làm tất cả những gì mà chúng tôi có thể nghĩ ra sẽ đưa ra một dấu hiệu cho Grover. Nhưng dẫu cậu ấy có thể nghe thấy chúng tôi chăng nữa, chúng tôi cũng không thể nói chuyện được.

Thậm chí nếu nhờ một vài phép màu nào đó mà chúng tôi thành công trong việc giết chết Polyphemus, nó cũng không mang lại cho chúng tôi bất cứ điều gì tốt lành. Grover và Clarisse vẫn sẽ chết trong chiếc hang bịt kín này. Cách duy nhất có thể di chuyển tảng đá này là phải để tên Cyclops tự làm điều đó.

Trong tâm trạng thất vọng hoàn toàn, tôi chém thanh Thủy Triều vào đá. Những tia lửa bắn lên nhưng cũng không có gì xảy ra. Một tảng đá lớn không phải là loại kẻ thù mà bạn có thể chiến đấu với một thanh kiếm pháp thuật.

Annabeth và tôi ngồi nhìn trên đỉnh hang với nỗi tuyệt vọng và dõi theo bóng dáng xa xa của tên Cyclops trong bộ đồ chú rể màu xanh khi hắn di chuyển giữa đàn cừu. Hắn thành thạo chia đám gia súc bình thường ra khỏi đám cừu ăn thịt người, tách hai nhóm ra hai bên khe nứt lớn, nơi phân chia hòn đảo. Cách duy nhất để qua về hai bên là chiếc cầu bằng dây thừng và những tấm ván được đặt quá xa so với móng chân chân cừu.

Chúng tôi vẫn ngóng nhìn khi Polyphemus đến thăm đám gia súc vật ăn thịt người đó ở phía xa xa kia. Thật bất hạnh làm sao, chúng lại không ăn thịt hắn. Mà thực ra chúng có vẻ không hề làm phiền hắn. Hắn cho chúng ăn những khúc thịt thần bí từ một chiếc làn lớn được đan bằng liễu gai. Điều đó đã củng cố cho cảm giác mà tôi đã từng có khi Circe biến tôi thành một con chuột lang – đó là có thể trong thời gian tới tôi tham gia với Grover và trở thành một kẻ ăn chay.

“Mẹo,” Annabeth quyết định. “Chúng ta không thể đánh bại hắn bằng sức mạnh nhưng chúng ta sẽ sử dụng mẹo.”

“Được thôi,” tôi hỏi, “Mẹo gì nào?”

“Tớ vẫn chưa nghĩ ra được phần đó.”

“Tuyệt.”

“Polyphemus sẽ phải dời tảng đá đi để cho lũ cừu đi vào”

“Vào lúc hoàng hôn,” tôi nói. “Đó là khi hắn cưới Clarisse và dùng Grover vào bữa tối. Tớ không chắc điều nào có vẻ chán ghét hơn điều nào.”

“Tớ có thể vào trong,” Annabeth đề nghị, “tàng hình.”

“Thế còn tớ?”

“Lũ cừu,” Annabeth đăm chiêu. Cô ấy nhìn tôi bằng cái nhìn ranh mãnh luôn khiến tôi cảnh giác. “Cậu thích cừu nhiều như thế nào?”

“Đừng thả tay ra nhé!” Annabeth nói, vẫn đang tàng hình đâu đó bên cạnh tôi. Cô ấy nói thì dễ. Cô ấy đâu có bị treo ngược dưới bụng cừu đâu cơ chứ.

Nhưng giờ đây tôi sẽ phải thừa nhận rằng điều này không khó như tôi nghĩ. Trước đây tôi đã trườn xuống dưới xe ô tô để thay dầu cho mẹ và điều này không quá khó. Con cừu chả quan tâm gì cả. Thậm chí ngay cả con cừu nhỏ nhất của Cyclops cũng đủ lớn để chống đỡ sức nặng của tôi và chúng có bộ lông thật dày. Tôi chỉ việc xoắn mớ lông đó bằng tay và móc chân lên chỗ xương đùi của con cừu và a lê hấp – tôi có cảm giác giống như một con Kanguru chân to(1) con, cưỡi lên ngực của con cừu, cố gắng giữ lông ra khỏi mồm và mũi tôi. ( (1) Cái tên wallby (Kanguru chân to) xuất phát từ bộ tộc thổ dân Eora ở Sydney. Nó được dùng để chỉ khoảng 30 loài động vật có túi có kích thước nhỏ hơn một con kangure hay wallaroo. Những loài phổ biến nhất là wallaby lông màu cát hay wallaby cổ đỏ, trông rất giống với kanguru và wallaroo, và thường thấy tại những bang ở phía nam. Kanguru núi chân to thường tập trung ở những vùng địa hình gồ ghề và thường có bàn chân bị biến đổi để có thể bám chặt vào đá thay vì xới đất. Những con wallabie nhỏ sống ở trong rừng được gọi là chuột túi bụng đỏ. Kanguru chân to có mặt ở khắp nơi trên đất nước Úc, đặc biệt là những vùng hẻo lánh, vùng núi đá và vùng có địa hình gồ ghề. Quan sát chúng ở Dãy Flindera ở Nam Úc, trong Công viên Quốc Gia Freycinet thuộc Tasmania và ở những Công Viên Quốc Gia Namadgi và Koseiuszko thuộc dãy Alpe của Úc (ND).)

Trong trường hợp bạn đang ngạc nhiên, phàn bên dưới của một con cừu quả không có mùi tuyệt vời gì. Hãy tưởng tượng áo len dài tay mùa đông của bạn bị kéo lê trong bùn và vứt vào giỏ đựng quần áo trong một tuần. Nó có mùi kiểu như vậy đó.

Mặt trời đang lặn dần.

Ngay khi tôi vừa vào vị trí, tên Cyclops kêu rống lên. “Nào, Các bé dê! Các bé cừu!”

Đàn gia súc bắt đầu nghiêm túc quay trở lại con dốc đi về hướng của hang.

“Đúng vậy!” Annabeth thì thầm. “Tớ sẽ ở bên cạnh. Đừng lo.”

Tôi thầm hứa với các vị thần rằng, nếu chúng tôi sống sót qua vụ này, tôi sẽ nói với Annabeth rằng cô ấy là một thiên tài. Điều khinh khủng là, tôi biết các vị thần sẽ bắt tôi giữ lời hứa đó.

Chiếc taxi cừu của tôi bắt đầu lặc lè đi lên đồi. Sau một trăm mét, tay và chân tôi đau dừ vì phải giữ chặt. Tôi kẹp chặt lông cừu thêm chặt và con vật kêu lên. Tôi không trách nó. Tôi cũng không muốn có ai đó trèo lên tóc mình. Nhưng nếu tôi không giữ chặt, chắc chắn rằng tôi sẽ bị ngã lăn ra phía trước mặt con quái vật.

“Hasenpfeffer,” tên Cyclops nói, đang vỗ về một con cừu trước mặt tôi. “Einstein! Widget – à đây rồi. Widget!”

Polyphemus vỗ vào con cừu của tôi và suýt đánh tôi văng xuống đất. “Có thêm thịt ở đây phải không?”

Uh-ồ, tôi nghĩ. Cuối cùng cũng đến rồi.

Nhưng Polyphemus chỉ cười và đánh mạnh vào phần đuôi con cừu, đẩy chúng tôi về phía trước. “Đi đi, đồ béo ị! Chả mấy chốc Polyphemus ta sẽ dùng ngươi làm bữa sáng thôi!”

Và bằng cách đó, tôi đã lọt được vào hang.

Tôi có thể nhìn thấy con cừu cuối cùng đang đi vào hang. Nếu Annabeth không nhanh thực hiện cái trò xao lãng của cô ấy…

Tên Cyclops chuẩn bị lăn hòn đá vào chỗ cũ thì Annabeth đang đứng đâu đó bỗng kêu thét lên. “Chào, đồ xấu xí!”

Polyphemus khựng người lại. “Ai nói thế?”

“Không ai cả!” Annabeth kêu lên.

Điều này đã thu được phản ứng thật chính xác đúng như cô ấy đang mọng đợi. Con quái vật quay phắt lại, mặt đỏ bừng đầy giận dữ.

“Không ai cả!” Polyphemus kêu lên. “Ta đã nhớ ra ngươi rồi!”

“Ngươi quá ngốc để nhớ bất kỳ ai,” Annabeth chế nhạo. “Tất nhiên là Không ai cả.”

Tôi hy vọng cô ấy sẵn sàng di chuyển khi cô ấy nói câu đó. Vì Polyphemus gần vang đầy tức giận, túm lấy tảng đá gần nhất (vô tình lại là cánh cửa trước hang của hắn) và ném về phía có tiếng nói của Annabeth. Tôi nghe thấy tiếng đá vỡ tan ra thành một ngàn mảnh.

Đáp lại khoảnh khắc đáng sợ đó là một sự im lặng. Rồi Annabeth lại gào lên, “Ngươi không học được cách ném gì tốt hơn cả!”

Polyphemus rú lên: “Tới đây! Để ta giết chết mi, Không ai cả!”

“Ngươi không thể giết. Không ai cả, đứa bé ngu ngốc à,” cô ấy chửi bới. “Hãy tự tìm ta đi!”

Polyphemus lao xuống quả đồi chạy theo hướng tiếng nói của cô ấy.

Giờ đây, cái từ Không ai cả đó là từ không có ý nghĩa đối với mọi người, nhưng Annabeth đã giải thích với tôi rằng đó là cái tên mà Odysseus đã dùng để lừa Polyphemus hàng thế kỷ trước, ngay trước khi ông ta đâm vào mắt tên Cyclops này bằng một thanh gỗ cháy lớn. Annabeth đoán rằng Polyphemus vẫn còn hận thù cái tên đó và cô đã đúng. Trong cơn tức giận điên cuồng tìm kiếm kẻ thù cũ, hắn đã quên mất việc đóng lại lối ra của hang. Hình như thậm chí hắn còn không đoán ra được rằng giọng của Annabeth là nữ, trong khi Không ai cả trước kia lại là nam. Mặt khác, hắn từng muốn cưới Grover, vì thế hắn không thể sáng suốt nhận ra đâu là nam, đâu là nữ.

Tôi chỉ hy vọng Annabeth còn sống sót và tiếp tục khiến hắn rối trí đủ lâu để tôi tìm được Grover và Clarisse.

Tôi buông vật cưỡi của mình, vỗ lên đầu Widget và xin lỗi. Tôi tìm căn phòng chính, nhưng không hề thấy dấu hiệu của Grover và Clarisse. Tôi chen lấn xuyên qua đám đông toàn cừu và dê để đi đến phía sau hang.

Mặc dù tôi đã từng mơ thấy nơi này, nhưng tôi thực khó tìm ra đường đi cho mình trong cái mê cung này. Tôi chạy về phía cuối các hành lang rải đầy xương, ngang qua những căn phòng phủ đầy thảm bằng da cừu và con cừu bằng xi măng có kích cỡ như thật mà tôi nhận ra là tác phẩm của Medusa. Có một loạt bộ sưu tập áo phông có hình cừu, rất nhiều bình lớn đựng mỡ cừu, áo khoác và tất bằng lông cừu, và mũ có gắn sừng cừu đực. Cuối cùng tôi cũng tìm ra được căn phòng dệt – nơi Grover đang chúi vào một góc, cố gắng cắt dây trói của Clarisse với một cái kéo an toàn.

“Không tốt,” Clarisse kêu lên. “Dây thừng này như sắt ấy!”

“Cậu chờ thêm mấy phút nữa!”

“Grover,” cô ta òa khóc đầy tức giận. “Cậu làm việc này đã mấy tiếng rồi!”

Rồi họ nhìn thấy tôi.

“Percy sao?” Clarisse kêu lên. “Đáng lẽ cậu phải bị nổ tung rồi cơ mà”

“Mừng vì được gặp lại cậu. Giờ giữ chặt trong khi tớ…”

“Perrrrrrcy!” Grover kêu be be và túm lấy tôi bằng một cái ôm. “Cậu đã nghe thấy tớ! Cậu đã tới rồi!”

“Ừ, người anh em à,” tôi đáp. “Tất nhiên là tớ đến chứ.”

“Annabeth đâu rồi?”

“Bên ngoài,” tôi nói. “Nhưng không có thời gian nói chuyện đâu. Clarisse, giữ chặt nhé.”

Tôi mở nắp cây Thủy Triều và chém đứt dây thừng. Cô ta đứng một cách khó khăn, xoa xoa cổ tay. Cô ta nhìn tôi chằm chằm trong giây lát rồi nhìn xuống dưới đất và lầm bầm, “Cám ơn nhé!”

“Không có gì,” tôi nói. “Giờ, còn ai nữa đi trên con thuyền cứu sinh của cậu không?”

Clarisse đầy kinh ngạc. “Không, chỉ có mình tớ thôi. Tất cả mọi người vẫn đi trên con tàu Birmingham… Ồ, tớ thậm chí không biết các cậu đi đấy.”

Tôi nhìn xuống, cố gắng không tin rằng hy vọng cuối cùng được nhìn thấy Tyson còn sống lại bị phá vỡ. “Được rồi, đi thôi. Chúng ta phải giúp…”

Một tiếng nổ vang tới tận trong hang kèm theo đó là một tiếng thét báo với tôi rằng chúng tôi đã quá muộn. Đó là tiếng thét của Annabeth trong sợ hãi.