Sử Thượng Đệ Nhất Phật Tu

Quyển 1 Chương 11

*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Tên của U Quỷ ngũ khách trên Thiên Đan bảng trong chớp mắt nhạt dần rồi biến mất, cho biết chúng đã thân tử đạo tiêu.

Hầu như cứ vài ngày sẽ có những cái tên mới xuất hiện trên Thiên Đan bảng, có điều thứ hạng trên Thiên Đan bảng càng cao, tỷ lệ tên bị mờ đi càng thấp. Ngược lại, hiện tượng những cái tên bỗng chốc phát sáng rồi biến mất thì lại tương đối nhiều, có nghĩa những người đó đã phá Đan thành Anh, trở thành một vị đại năng.

“Hành tung của U Quỷ ngũ khách luôn kỳ bí, lại còn hành động theo nhóm năm người, thật sự rất khó đối phó, chẳng lẽ là do vị nào trong mười hạng đầu ra tay sao?”

“Thiên Cơ các bên kia đã xác nhận, là do Thất Sát chân quân và vị Bán Phật chân quân mới nổi cùng nhau liên hợp, nhìn mà xem, thứ hạng trên Thiên Đan bảng thay đổi rồi kìa.” Một tu sĩ linh thông tin tức hâm mộ nói, “Kìa, tên của Bán Phật chân quân đi lên rồi.”

“Thật không, ta cũng đi xem xem.” Tu sĩ nghe được tin này liền nhanh chóng chạy đến trước Thiên Đan bản, nhận thấy thứ hạng trên bảng quả nhiên có thay đổi.

Cái tên vốn xếp thứ mười hai của Hương Vụ tiên tử Tần Hương Hương tự động leo lên, xếp thứ mười một, chỉ kém một bước nữa là lọt vào mười hạng đầu.

Thất Sát chân quân Thẩm Phá Thiên, leo lên hạng thứ mười hai trên Thiên Đan bảng.

Bán Phật chân quân Tạ Chinh Hồng, xếp hạng mười lăm trên Thiên Đan bảng.

——————————————————————————

Thẩm Phá Thiên nhiệt tình mời Tạ Chinh Hồng gia nhập Lạc Kiếm tông của mình.

Tán tu tuy rằng được tự do, nhưng lại thiếu hụt tài nguyên, cũng ít khi nhận được chỉ điểm từ các tiền bối. Rất nhiều tán tu ban đầu nhờ tự mình chăm chỉ cố gắng mà có thực lực ngang bằng những đệ tử tài năng của môn phái lớn, thế nhưng về sau, không có căn cơ vững chắc, không đủ linh thạch pháp khí, không được các trưởng lão chỉ điểm, thì chỉ lãng phí thời gian mà thôi. Do đó, nhiều tán tu một khi đã có tên tuổi nhất định đều sẽ lựa chọn môn phái phù hợp để bái sư, khi thực lực đạt đến kỳ Nguyên Anh có thể cung phụng trưởng lão hoặc làm khách khanh.

Thẩm Phá Thiên là đệ tử đích truyền của Lạc Kiếm tông, được hắn đề cử, đãi ngộ của Tạ Chinh Hồng khẳng định sẽ tốt hơn so với các tán tu khác. Tuy ở Lạc Kiếm tông hầu hết đều là Kiếm tu, nhưng quan hệ với tông môn Phật tu Hoa Nghiêm tông cũng không tồi, mời trưởng lão của Hoa Nghiêm tông chỉ điểm cho Tạ Chinh Hồng cũng không thành vấn đề.

Nếu không có Văn Xuân Tương, Tạ Chinh Hồng gia nhập Lạc Kiếm tông cũng là một lựa chọn rất tốt.

“Ngươi không được đến Lạc Kiếm tông.” Văn Xuân Tương phản đối, “Muốn đi thì phải đi Quy Nguyên tông.” Khốn Tiên thằng trên người y là do mấy trưởng lão của Quy Nguyên tông mang ra.

“Ta sẽ không đi.” Tạ Chinh Hồng trấn an y, tông môn Kiếm tu dù là chính hay tà, đều mang sát khí rất nặng, không phải nơi tốt cho Phật tu. Hơn nữa, hắn đã nói sẽ cứu Văn Xuân Tương ra, sao có thể đến tông môn khác được?

“Lạc Kiếm tông chúng ta tuy rằng xếp thứ hai, nhưng cũng không hề thua kém Quy Nguyên tông, chỉ là không có nhiều kẻ mạnh bằng Quy Nguyên tông thôi. Mặc dù người xếp hạng nhất trên Thiên Đan bảng hiện nay thuộc Quy Nguyên tông, nhưng đó là bởi Kiếm Tâm chân quân của Lạc Kiếm tông chúng ta đã phá Đan thành Anh trở thành chân nhân, nên mới rút khỏi bảng.” Khi Thẩm Phá Thiên nhắc đến Kiếm Tâm chân nhân thì trên mặt đầy vẻ kiêu ngạo, Lạc Kiếm tông của bọn họ đâu có dễ vào, nếu không phải Thẩm Phá Thiên từ nhỏ đã được sư tôn cưng chiều, bản thân lại có thiên phú hơn người, chỉ e cũng không thể tiến cử Tạ Chinh Hồng.

“Đa tạ ý tốt của Thẩm đạo hữu.” Tạ Chinh Hồng thoáng cười, “Lúc trước ta có nghe nói Tam Tư đại sư của Hoa Nghiêm tông sẽ mở một buổi Phật hội ở chỗ này, ta đang tính đến dự.”

“Ngươi dự định gia nhập Phật môn thật ư?” Thẩm Phá Thiên hoài nghi nhìn Tạ Chinh Hồng, tông môn Phật tu không hề dễ vào. Hơn nữa đừng thấy đều là Phật tu mà lầm tưởng, thực tế các tông môn Phật tu cũng chia ra nhiều loại khác nhau, kinh Phật mà từng tông môn nghiên cứu cũng không giống nhau. Trao đổi lẫn nhau một chút cũng được, nhưng Phật tu Dã Hồ thiền nếu muốn nhận truyền thừa, để nhập môn không hề dễ dàng chút nào.

Khác biệt giữa các nhánh Phật tu, cũng giống như khác biệt giữa Kiếm tu và Pháp tu vậy, gần như là hai con đường hoàn toàn khác nhau.

Tuy vậy nếu Tạ Chinh Hồng một lòng hướng Phật như thế, hắn cũng không thể mặt dày lôi kéo Tạ Chinh Hồng đến tông môn của mình được.

Tạ Chinh Hồng chỉ cười không nói, không phủ nhận cũng không thừa nhận.

Nhưng thái độ đó cũng đủ làm Thẩm Phá Thiên hiểu được.

“Một khi đã như vậy, ta cũng không cản trở nữa.” Thẩm Phá Thiên tiếc nuối nhìn Tạ Chinh Hồng, “Kiếm Tâm chân nhân được sư phụ ta nhờ vả, nguyện ý chỉ điểm ta và Trần sư huynh mấy chiêu, ta phải nhanh chóng trở về tông môn thôi. Mới quen biết chưa lâu mà giờ đã phải từ biệt rồi.” Thẩm Phá Thiên đã thật lòng coi Tạ Chinh Hồng là bằng hữu, một Phật tu lợi hại cỡ này nhưng không ngày nào cũng bám riết hắn niệm kinh quả thật hiếm thấy!

Suy nghĩ một lát, Thẩm Phá Thiên liền lấy một tấm phù lục trong túi ra, “Lúc ta ra ngoài du lịch, sư phụ có tặng ta bảy tấm kiếm phù, bên trong có chứa một đạo kiếm ý của Nguyên Anh chân nhân, dùng để hộ thân rất hiệu quả. Ở đây còn mấy tấm, tặng ngươi một tấm phòng thân.”

“Kiếm phù của Nguyên Anh chân nhân, cũng tạm được đấy, chỉ là kiếm ý quá nhu hòa, còn phải luyện thêm, sư tôn của tiểu tử này xem ra cũng không phải hạng xoàng. Muốn mượn sức ngươi thì phải bỏ chút vốn chứ.” Giọng điệu của Văn Xuân Tương mang theo chút vẻ ghét bỏ.

“Đồ hộ thân tốt cỡ này, chẳng ai lại chê nhiều cả.” Tạ Chinh Hồng hiếm khi phản bác lại Văn Xuân Tương.

“Chỉ là chút ân huệ cỏn con mà thôi, bổn tọa đâu có giống đồ kiến thức hạn hẹp như ngươi!” Văn Xuân Tương thấy Tạ Chinh Hồng lần đầu tiên phản bác mình vì một ngoại nhân, lập tức có chút tức giận. Nhẫn trữ vật và linh thạch y cướp được vì Tạ Chinh Hồng cộng lại còn quý giá hơn thứ này nhiều. Bao nhiêu kẻ mong được y chỉ điểm còn phải xem tâm trạng y ra sao, Tạ Chinh Hồng chẳng những không cung kính y, ngược lại còn coi trọng tấm kiếm phù loạn thất bát tao[1] này, quá nực cười rồi đấy!

“Tiền bối dạy phải.” Tạ Chinh Hồng trả lời.

Nghe thấy khẩu khí trước sau như một của Tạ Chinh Hồng, trong lòng Văn Xuân Tương cũng bớt đi vài phần không tự nhiên, y đường đường là một Ma Tôn, sao lại đi giận dỗi vì việc cỏn con này chứ. Chờ y gỡ bỏ được Khốn Tiên thằng, đừng nói một tấm kiếm phù, dù có là bảo bối Đoạn Kiếm tiên thạch mà bao Kiếm tu ao ước y cũng có thể cho hắn làm đá ném chơi!

“Đa tạ Thẩm đạo hữu, có điều kiếm phù trân quý cỡ này……” Tạ Chinh Hồng lắc đầu muốn từ chối, Thẩm Phá Thiên cũng xem như bằng hữu đầu tiên của Tạ Chinh Hồng, hắn chưa từng gặp qua người nào thẳng thắn bày tỏ ý tốt như Thẩm Phá Thiên. Dù là Tạ Chinh Hồng thường ngày quá mức thanh tâm quả dục[2] đi nữa, giờ phút này cũng sinh lòng cảm kích.

“Không sao, thứ này cũng không tính là gì.” Thẩm Phá Thiên vẫn kiên quyết đưa kiếm phù cho Tạ Chinh Hồng, “Thật ra ta vốn chẳng hề vừa mắt cái tên Thánh Tâm phật quân gì đó, lằng nhằng chết đi được. Về sau chắc chắn ngươi còn đạt được nhiều thành tựu hơn y, ngươi lại còn giúp ta diệt trừ U Quỷ ngũ khách, đã là một ân huệ lớn rồi. Nếu ngươi vẫn áy náy, về sau khi đã có được Pháp ấn[3] của chính mình rồi, viết tặng ta một bộ《Thanh tâm kinh》là được.” Chỉ khi Phật tu thấu hiểu rõ ràng con đường tu đạo của mình thì mới có được Pháp ấn riêng,《Thanh tâm kinh》cũng là một trong số những kinh thư được yêu thích nhất trong Phật môn, nếu có được bản viết tay của cao tăng đắc đạo, hiệu quả có thể sánh bằng Khu ma đan mạnh nhất, là pháp bảo tốt nhất giúp tu sĩ vượt qua tâm ma.

Song Phật tu có được Pháp ấn cực ít, trong toàn Đạo Xuân trung thế giới, chỉ có không tới ba Phật tu có Pháp ấn, hơn nữa hầu như ai cũng đều ẩn cư tránh xa sự đời.

“Vậy xin đa tạ Thẩm đạo hữu.” Bây giờ Tạ Chinh Hồng chẳng có gì trên người, Tam Phương ấn và Thất Bảo Bồ Đề đều là thứ vừa mua không thể đem tặng, đành phải nhẹ giọng nói lời cảm tạ, “Nếu có ngày đó, nhất định sẽ viết tặng đạo hữu.”

“Pháp ấn thực ra cũng không hạn chế tu vi, chỉ cần bản thân kiên định, không bị ảnh hưởng bởi ngoại vật là có thể tìm được Pháp ấn riêng.” Văn Xuân Tương an ủi. Có điều Pháp ấn đó đều là giả, không phải Pháp ấn chân chính. Nghe nói muốn có Pháp ấn thì Phật tu phải đợi đến khi phi tăng, trở thành Bồ Tát La Hán Kim Thân trên Phật giới mới được. Pháp ấn ở Tu Chân giới chẳng qua là “Thứ Pháp ấn”, một dấu hiệu tượng trưng cho khả năng chứng tỏ được đạo của mình mà thôi.

Tuy nhiên Thẩm Phá Thiên nói như vậy, cũng chứng minh hắn vô cùng xem trọng Tạ Chinh Hồng.

Vị Thánh Tâm phật quân Tam Tư đại sư xếp thứ bảy trên Thiên Đan bảng hiện nay cũng chưa có được Thứ Pháp ấn của riêng mình.

Sau khi nói lời từ biệt với Thẩm Phá Thiên, Tạ Chinh Hồng thong dong đi đường hai ngày, tìm một nhà trọ, đem chút linh thạch mới kiếm được bỏ hết vào trong chuỗi hạt đeo tay.

Cuốn da dê ngày trước dùng để ký khế ước vốn là một dị bảo khó tìm, không những có thể biến hình, mà còn là một động phủ loại nhỏ. Văn Xuân Tương xem xét nhiều ngày, mới hiểu rõ tác dụng của nó.

Trên người U Quỷ ngũ khách có không ít linh thạch, bản thân Thẩm Phá Thiên cũng không thiếu linh thạch, nên cũng không lấy nhiều, còn lại hầu hết đều rơi vào tay Tạ Chinh Hồng. Một ít linh thạch trong số đó bỏ vào nhẫn trữ vật dùng cho việc sinh hoạt cần thiết, số còn lại Văn Xuân Tương dùng để mở rộng không gian mà cuốn da dê biến thành.

Chỉ có điều số lượng linh thạch thượng phẩm cũng không nhiều, chỉ vừa vặn tạo ra một không gian chừng hai mét vuông, đặt xong giường và ghế thì chẳng đủ chỗ bày thêm thứ gì nữa.

Tạ Chinh Hồng thả thần thức vào trong chuỗi cốt châu, thấy Văn Xuân Tương đang ngồi xụ mặt trên giường.

Nơi đơn sơ như vậy, bởi vì có thêm Văn Xuân Tương, phút chốc liền mang vẻ như tiên phủ biệt viện.

“Xem ra linh thạch thượng phẩm thì không đủ dùng, phải cần có linh thạch cực phẩm mới được.” Văn Xuân Tương ngẩng đầu, nhìn vào khoảng không trống rỗng nói.

“Bần tăng sẽ cố gắng hết sức.” Tạ Chinh Hồng trả lời.

“Ừm.” Văn Xuân Tương khoát tay, bắt đầu đọc mấy ngọc giản chứa thoại bản[4] mà Tạ Chinh Hồng mới mua.

Tạ Chinh Hồng thu lại thần thức từ trong chuỗi hạt, tự hỏi tiếp theo nên làm gì.

Hắn nhớ chưởng quầy của Kì Trân các từng nói Thánh Tâm phật quân Tam Tư đại sư sẽ tổ chức Phật hội tại Xá Thân tự, xem lịch thì hẳn là ngày mai rồi, nếu nhanh chóng lên đường chắc có thể đến kịp.

Tạ Chinh Hồng từ nhỏ đã theo Tuệ Chính ra ngoài, cực ít khi gặp mặt các Phật tu khác, mấy người còn lại của Nhân Chân tự hiện giờ cũng gần như không tính là Phật tu. Bởi vậy hắn có chút hứng thú với chuyến đi này.

Chẳng qua, Văn Xuân Tương có hơi phản đối việc này.

“Ngươi cũng biết bản tôn ghét nhất là đám hòa thượng, đi nghe giảng Phật pháp càng khiến ta thấy phiền hơn thôi.” Văn Xuân Tương buồn bực ném ngọc giản sang một bên, chẳng còn hứng mà đọc nữa!

“Ta ngủ một giấc trước đây, khi nào Phật hội kết thúc thì đánh thức ta dậy. Người khác có hỏi thì cứ bảo ngươi luyện《Đại Bàn Nhược công》rõ chưa?”

“Vâng.” Tạ Chinh Hồng gật đầu.

“Chậc, lũ hòa thượng các ngươi thật phiền phức, hiểu kinh Phật không nhiều bằng ta, lại còn bày đặt mở Phật hội để mua chuộc lòng người.” Văn Xuân Tương vừa tức giận vừa nằm lên giường, khinh thường nói. Hiện giờ y đang trong trạng thái phân thân, nhưng trên người vẫn có chút ma khí, y không dám chắc bên trong Xá Thân tự sẽ xuất hiện Phật tu kỳ Hóa Thần hay không, nếu chẳng may y bị phát hiện, Tạ Chinh Hồng nhất định phải chết. Tuy nhiên chuyện khiến người ta xem thường như vậy, Văn Xuân Tương sẽ không nói thẳng ra.

“Chúc tiền bối có giấc mơ đẹp.” Tạ Chinh Hồng tuy cảm thấy trong lửa giận của Văn Xuân Tương có điều kỳ quái, song hắn cũng không hỏi nhiều làm gì.

******

★Chú thích:

[1]Loạn thất bát tao: vớ vẩn, lung tung, lộn xộn.

[2]Thanh tâm quả dục: “thanh tâm” là giữ cho tâm hồn nhẹ nhàng, thanh thản; “quả dục” là tiết chế dục vọng.

[3]Pháp ấn: là khuôn dấu hay dấu hiệu của chánh pháp, là tiêu chuẩn để chứng minh cho tính đúng đắn và chính thống của giáo lý đạo Phật. Tam Pháp ấn gồm Vô Thường, Khổ và Vô Ngã là ba con dấu mang tính pháp định trong toàn bộ hệ thống giáo lý của Phật Giáo.

(Tam Pháp ấn)

[4]Thoại bản: là một thể loại văn học ra đời vào triều Tống (960 – 1279), được xem như tiền thân của tiểu thuyết hiện đại.