Tiên Lộ Tranh Phong

Chương 11: Chỉ cầu tiêu dao kiếp này

Không cần biết Đường Kiếp có đồng ý hay không, trận đạo này hắn học chắc rồi.

Cho nên mấy ngày tiếp theo, ngoại trừ tu luyện Tàng Tượng Kinh ra, hắn còn theo Hư Mộ Dương học trận pháp. May mà hiện giờ mỗi ngày hắn đều tẩy mạch, không cần tu luyện, thời gian dư ra cũng đủ dùng.

- Đạo của trận, lấy thuật lý ứng với ý trời. Từ đó muốn nắm bắt trận đạo, phải phù hợp với ý trời...

Buổi học hôm nay, Hư Mộ Dương giảng giải về đạo tiến hóa tự nhiên của trận pháp cho Đường Kiếp.

Theo lời Hư Mộ Dương nói, trời sinh vạn vật không có thứ gì là không theo ý trời, mỗi một gốc cây ngọn cỏ tất có ý nghĩa tồn tại của nó. Chính vì thế, trận đạo của Hư Mộ Dương coi trọng tiến hóa tự nhiên, chú trọng làm theo ý thích, từ đó tiếp tục phát huy.

Cũng có nghĩa là cùng một trận pháp, trong từng hoàn cảnh khác nhau, phương pháp bố trí cũng khác nhau, uy lực hiệu quả cũng không tương đồng.

Tương tự tiểu Mê Điệp Trận trước đó, nếu thi triển ở nơi khác, phương pháp bố trí và hiệu quả cũng khác hẳn.

Đương nhiên cũng không nhất thiết theo sát điều này, nhưng nếu bày trận theo hình thức này thì sẽ tự nhiên nhất, uy lực cũng mạnh nhất.

Đối với trận pháp mà nói, đó dĩ nhiên là cách che đậy tốt nhất.

Khác với người tu, do trận pháp trực tiếp dùng linh khí trời đất, uy lực cực lớn, người tu tiên sẽ không dễ dấn thân vào, cho nên trận pháp không thể che dấu vết tích tồn tại thì không phải là trận pháp tốt. Hư Mộ Dương am hiểu về mặt này nhất, gần như không ai có thể phát giác sự tồn tại của các đại trận trước khi huy động mà y bố trí. Trước kia, Kim giáp thiên thần cùng tác chiến với y hoàn toàn không nhận ra dấu tích của Bát Môn Tỏa Thiên Trận, nếu không phải Kim giáp thiên thần có thực lực siêu quần, e rằng đã sớm bị vây chặt trong Bát Môn Tỏa Thiên Trận đó.

Trừ chuyện này ra, người ta còn phải am tường về quan sát hoàn cảnh, tìm chỗ có thể lợi dụng.

- Nhìn núi không phải núi, nhìn nước không phải nước. Mỗi một thứ tồn tại trong trời đất này, nếu có thể lợi dụng thỏa đáng thì đều có thể thành mắt trận, trận đồ, cửa trận. Người đời vô tri, thường dùng linh vật thiên địa làm cơ sở, như vậy sẽ làm mất đi ý gốc của trận đạo.

Hư Mộ Dương vừa nói vừa thở dài.

- Ý của Hư đại ca là nói người khác bày trận đều dùng đủ loại linh vật đúc thành, cũng giống như căn phòng này lấy đá làm nền móng, đốn cây làm xà dựng thành lầu cao, nhưng huynh bày trận lại khoét một hốc trong cây, đúng không?

Đường Kiếp hỏi.

- Ngươi nói vậy chẳng khác gì nhà ta xây không giống với người ta.

Hư Mộ Dương hừ một tiếng:

- Lấy cây làm nhà dĩ nhiên không bằng lấy vật liệu tự xây, nhưng nếu xem thiên địa này là nhà thì sao? Lấy núi non làm xương, lấy sông làm mạch rồi dựng thành lầu cao, ngươi thấy thế nào?

- Thế thì dĩ nhiên là người bên cạnh không bì được, bất quá có trận pháp như vậy à?

- Có!

Hư Mộ Dương khẳng định chắc nịch:

- Nếu trước kia ta vẫn còn hoài nghi về việc này, thì bây giờ ta có thể chắc chắn với ngươi, tuyệt đối có!

- Có phải là đại trận do Cửu Lê Binh Chủ gì đó chế tạo phải không?

Đường Kiếp đột ngột hỏi.

Hư Mộ Dương sững người, y hỏi Đường Kiếp:

- Ngươi biết rồi à?

- Ừm, đệ không chỉ biết có vậy.

Đường Kiếp gật đầu:

- Đệ còn biết... Kim giáp thiên thần hôm đó đuổi theo huynh, là người của Thiên thần cung phải không?

Hư Mộ Dương ngây người:

- Làm sao ngươi biết hết những chuyện này?

- Có gì lạ đâu.

Đường Kiếp thản nhiên trả lời:

- Tứ đại gia tộc tu tiên Không - Cốc - Minh - Hư, theo cách nói của Hư đại ca, ở Mạc Khâu xem như cũng nổi danh rồi. Nếu là môn phái thông thường thì có mấy ai dám truy sát huynh? Ngoại trừ Thiên thần cung, còn ai dám truy sát huynh đến tận chân trời góc biển?

Gần đây ở cạnh Hư Mộ Dương, Đường Kiếp càng lúc càng hiểu rõ tình hình ở Tê Hà Giới.

Tê Hà Giới có sáu nước năm mươi chín châu, bảy vùng biển chín mươi mốt đảo, Văn Tâm và Mạc Khâu là hai trong sáu đại quốc.

Chiếu theo quy củ tiên gia, một phái chấp chưởng một nước, một nước thờ một phái. Tẩy Nguyệt phái là đại tông môn sau lưng của Văn Tâm Quốc, Thiên thần cung là tông chủ sau lưng của Mạc Khâu.

Lục đại phái này có địa vị siêu nhiên, ngay cả quốc chủ thấy cũng phải cúi đầu quỳ lạy.

Ngoài ra, các môn phái khác đều là tiểu tộc, họ phải dựa vào hơi thở của lục đại phái mà sinh tồn.

Tuy Hư gia là một trong tứ đại tiên gia, nhưng so với Thiên thần cung thì thua xa. Thiên thần cung muốn giết Hư Mộ Dương, còn ai dám cản trở?

Chính vì thế, Đường Kiếp dễ dàng đoán ra ai đã truy sát Hư Mộ Dương.

- Vậy ngươi có biết mọi chuyện rốt cuộc là vì sao không?

Hư Mộ Dương hỏi.

Đường Kiếp mỉm cười:

- Ừm, Cửu Lê Binh Chủ thượng cổ quyền năng vô hạn, chuyển kiếp dùng Tàng Tượng Kinh, Tuyệt Thế đại trận, gộp những thứ này lại cũng có thể biên ra một câu chuyện rồi. Nghĩ lại chẳng qua chỉ là câu chuyện tìm kiếm Bí Cảnh, cướp của giết người thôi, có gì mới lạ đâu, mà Tu Tiên giới lại nguy hiểm, Hư đại ca cũng nhắc đi nhắc lại với đệ rồi còn gì.

Hư Mộ Dương há hốc miệng, cả buổi trời vẫn không rặn ra được câu nào, rốt cuộc y cười sang sảng:

- Hay, tiểu tử ngươi giỏi lắm, ta không nên trông mong giấu được ngươi. Đúng vậy, lời mời lần đó, Thiên thần cung đã phát hiện nơi Quy Khư của Cửu Lê Binh Chủ, bèn mời ta đến trước phá trận thăm dò. Chung quy cũng tại ta ngây thơ, những tưởng mình là nguời trong Hư gia, Thiên thần cung sẽ không làm đến mức vắt chanh bỏ vỏ, ai ngờ bọn họ lại tàn độc đến thế. Nếu không phải sau đó ta cảm thấy bất thường, kịp thời thoát thân, chỉ sợ không chết trong Cửu Tuyệt Tru Tiên Trận mà chết trong tay đám ranh con Thiên thần cung rồi!

Khi y nói những lời này, trong lòng tràn đầy căm hận, hiển nhiên là phẫn nộ tột cùng.

Ban đầu Thiên thần cung phái người đến tìm y, nói rằng đã phát hiện nơi Quy Khư của Cửu Lê Binh Chủ, đến cả y cũng kinh ngạc.

Cái gọi là “Quy Khư”, đó là nơi sau khi người chết sẽ hóa thành tự nhiên, chính là quay về căn nguyên.

Vì người tu tiên tu luyện cả đời, hấp thụ linh khí, trộm nhiều linh khí trời đất nên một khi chết đi, linh khí sẽ trở về nguồn cội, hóa về tự nhiên.

Do đó một khi Quy Khư, tiên nhân càng hùng mạnh thì càng đem lại linh khí dồi dào. Người có thực lực mạnh như thế, sau khi chết linh khí sẽ ngưng tụ thành mưa, thậm chí có thể biến đất đai hoang vu thành động thiên đất phúc.

Tiên gia chết không mồ, Quy Khư là linh địa.

Cũng vì vậy, các đệ tử môn nhân của tiên gia đại phái chỉ cần có đủ điều kiện, trước khi chết sẽ cố gắng trở về bổn phái rồi Quy Khư. Ngày tháng lâu dài, họ sẽ tạo thành đất phúc tràn đầy linh khí cho bổn phái.

Uẩn khúc của thế gia đại tộc có một nửa là thể hiện ở phương diện này.

Linh khí thiên địa trong một giới có cực hạn, nơi này tăng thì nơi kia giảm, sau khi thiên trường địa cửu, cùng ở một giới, linh khí các nơi cũng khác nhau.

Tên đầu sỏ mã tặc Bắc Tứ Hải của Tứ Hải Đường kia trách móc tiên nhân hại trời hại đất để vỗ béo bản thân, chính là vì những lý do trên.

Linh khí trong thiên hạ vốn cực nhiều và có ở khắp nơi, nhưng phần lớn đều bị tiên nhân chiếm mất, dù người phàm muốn tu luyện cũng không biết bắt đầu từ đâu.

Theo cách nói của Thiên thần cung, bọn họ phát hiện một nơi rất giàu linh khí ở dãy núi Thiên đô, do gần đó không có môn phái tiên gia nào, họ nghi ngờ có người quyền năng Quy Khư ở đây, sau đó liền triển khai tìm kiếm lâu dài. Cuối cùng bọn họ phát hiện ra một đại trận ở một nơi thuộc dãy núi đó, linh khí tràn ra từ nơi này. Xét về thời gian cho thấy linh khí tràn ra chưa lâu, song kẻ thấy được linh địa thật sự, chỉ e sẽ càng kinh hãi.

Đồng thời, bọn họ cũng tìm được một chiếc gương cổ đồng xanh.

- Chính là cái gương cổ huynh hay lấy ra nghịch?

Đường Kiếp hốt hoảng.

- Đúng thế.

Hư Mộ Dương lấy chiếc gương cổ đồng xanh kia ra.

Gương cổ này phân ra hai mặt âm dương, mặt âm khắc chim bay thú nhảy, hoa chim cá trùng, núi non sông nước sống động như thật, xung quanh còn khắc chi chít hoa văn cổ quái. Đường Kiếp lần đầu nhìn không thấy gì kì lạ, nhưng lần này ngắm kỹ hơn, hắn cảm thấy cảnh tượng xung quanh lay chuyển, mọi thứ bên cạnh dường như trở nên mơ hồ, hắn khó cưỡng lại mà chìm đắm trong thế giới quỷ dị đó.

May mà Hư Mộ Dương đã kịp thời che đi mặt âm, Đường Kiếp liền tỉnh táo lại.

Nhìn vào mặt dương chỉ có một chữ “Binh” to tướng, xung quanh cũng viền hoa văn chằng chịt.

Chữ “Binh” khắc rất tinh xảo, nét bút hữu lực, mỗi một nét móc tựa hồ ẩn chứa uy lực bên trong. Một luồng sát khí bỗng ập vào mặt giống như muốn đâm xuyên Đường Kiếp.

Đường Kiếp thét “a” một tiếng, Hư Mộ Dương cất gương cổ vào:

- Công lực ngươi không đủ, vật này chứa thần ý của Binh Chủ, tuy đã tiêu hao qua vạn năm, nhưng uy lực vẫn mạnh đến mức ngươi khó mà chịu được.

Đường Kiếp nghe xong cũng thấy choáng váng. Chỉ là vật do người chết để lại, mang một chút ý niệm, trải qua cả vạn năm đã mạnh chừng ấy, nếu còn sống thì không biết khủng bố đến mức nào, khó trách Hư Mộ Dương cực kỳ tôn sùng vật này.

- Nói như vậy, đây là vật của Thiên thần cung sao?

- Chính thế.

Hư Mộ Dương đáp:

- Sau khi tìm được gương cổ này rồi giám định, Thiên thần cung cho rằng chữ “Binh” trên đây rất có thể đại biểu cho Cửu Lê Binh Chủ thượng cổ quyền năng. Tiếc là năm đó tuy Binh Chủ uy hùng khắp thiên hạ, nhưng tin tức lưu truyền đến hiện tại lại không nhiều, bọn họ chỉ có thể căn cứ vào niên đại và khí tức lưu lại trên đó để suy đoán. Khi ấy gương cổ này bị giấu trong một hang núi có trận pháp phong ấn, bản thân trận pháp cực yếu, rất dễ phá giải, nhưng thủ pháp duy trì cực cao minh, trải qua trăm kiếp vẫn không hỏng. Thiên thần cung đoán vật này có thể là do Cửu Lê Binh Chủ vì bản thân chuyển kiếp mà cố ý lưu lại. Đương nhiên, rốt cuộc có phải của Binh Chủ hay không, tại sao Binh Chủ lại đi, tất cả chỉ là phỏng đoán. Chung quy thời thượng cổ cách ngày nay quá lâu, rất nhiều chân tướng đã mất hút vào dòng chảy lịch sử, mọi người chỉ có thể cho rằng đó là của Cửu Lê Binh Chủ để lại.

- Xem ra ông ấy chuyển kiếp không thành công.

Đường Kiếp nhận định.

Hư Mộ Dương cười bất đắc dĩ:

- Nếu ông ấy thành công thì chúng ta không có chuyện làm nữa.

Sau khi sinh cơ đoạn tuyệt, chuyển kiếp chính là lựa chọn bắc đắc dĩ mà người tu tiên gửi gắm hy vọng vào kiếp sau.

Sau khi tiên nhân chuyển kiếp, hết thảy mọi ký ức đều biến mất, trừ khi có cơ duyên nhất định, bằng không rất khó khôi phục.

Người nào không có vận khí tốt, có khả năng luân hồi mấy lần vẫn không thể hồi phục ký ức. Mỗi một lần luân hồi, ký ức kiếp trước lại hao hụt đi một chút, số lần luân hồi càng nhiều thì càng không còn cơ hội.

Thiên thần cung phỏng đoán năm đó Binh Chủ rất có thể đã gặp phải nguy cơ cực lớn, vạn bất đắc dĩ mới lựa chọn chuyển kiếp. Chiếc gương Cửu Lê Huyền Binh này do y cố ý để lại cho bản thân nhằm làm chìa khóa mở bảo tàng đã lưu lại.

Song Binh Chủ hoặc là chuyển kiếp thất bại, hoặc là khôi phục ký ức thất bại. Tóm lại, y không thể nào quay lại đây để lấy Huyền Binh Giám (gương Huyền Binh) này, cuối cùng nó lại lọt vào tay Thiên thần cung.

Nếu đã có Huyền Binh Giám, vậy hơn phân nửa các pháp bảo, công pháp thần kỳ mà năm đó Binh Chủ lưu lại cũng còn ở đó.

Do vậy, Thiên thần cung tận dụng hết sức người thử phá giải đại trận, chỉ mới thử thôi đã khiến biết bao nhiêu người mất mạng, hao phí cả trăm năm vẫn không được tích sự gì, không ai vào được. Nghĩ tới đây có thể biết ngay tâm trạng thế nào.

Vừa hay lúc đó danh tiếng thiên tài trận đạo của Hư Mộ Dương phất lên, họ bất đắc dĩ mới tìm đến Hư Mộ Dương giúp đỡ, còn hứa sẽ báo đáp thỏa đáng.

Hư Mộ Dương thuộc lòng sách trận, nhận ra đây là Cửu Tuyệt Tru Tiên Trận thất truyền đã lâu, bèn căn cứ theo tin tức lưu lại trên Huyền Binh Giám phá giải tầng thứ nhất của Tru Tiên Trận, sau đó lấy được Tàng Tượng Kinh.

Cũng ngay lúc đó, y phát hiện Thiên thần cung có ý muốn giết mình.

- Nhưng tại sao họ cứ khăng khăng muốn giết huynh?

Đường Kiếp lấy làm khó hiểu:

- Thiên thần cung cực kỳ lớn mạnh, chắc là không keo kiệt đến mức không chịu trả chút xíu giá mọn? Huống hồ trận vẫn chưa phá xong...

Hư Mộ Dương hừ một tiếng:

- Đương nhiên không phải là vì chút thù lao cỏn con kia, mà là vì giữ bí mật. Nơi Quy Khư của Cửu Lê Binh Chủ tất nhiên dồi dào linh khí, cho dù bên trong không có thứ gì, chỉ riêng bản thân vùng đất đó cũng có giá trị phi phàm, tương đương với linh mạch của cả một vùng thiên nhiên, cần phải nắm giữ lâu dài có mới có thể phát huy tác dụng của nó. Vấn đề là tuy Thiên thần cung có được Huyền Binh Giám, nhưng núi Thiên Đô không nằm trong địa giới Mạc Khâu mà là ở trong địa giới Nhai Hải và Tứ Cực. Thiên thần cung chạy đến hai nước này tìm bảo tàng và chiếm đất, một khi để lộ tin này, Thiên Nhai Hải các và Thiên Tình Tông chắc chắn sẽ đến đó tranh lợi, cho nên khó tránh đấu đá một phen. Thiên Nhai Hải các và Thất Tuyệt Môn là đồng đảng, Thiên Tình Tông và Tẩy Nguyệt phái cùng chia ngọt sẻ bùi. Thiên thần cung cụt một tay khó chống lại, hơn phân nửa sẽ lôi kéo Thú Luyện Môn giúp đỡ. Lục Đại phái cùng nhau tham dự, lợi ích bị mất trong chuyện này cũng rất nhiều. Rốt cuộc ta vẫn không phải là người của Thiên thần cung, không bị lời thề thiên thần khống chế, chỉ dựa vào một lời thề Tâm Ma dĩ nhiên không thể khiến họ yên tâm. Về phần vẫn chưa phá hết trận thì không lo, trước mắt bọn họ chủ yếu không biết cách dùng của Huyền Binh Giám này. Sau khi phá giải bí mật Huyền Binh giám, đương nhiên tác dụng của ta cũng hết, nếu không phải bọn chúng muốn tiết kiệm chút sức lực mà mượn sức ta phá trận tiếp, chỉ sợ lúc ấy đã giết ta.

- Thì ra là vậy.

Đường Kiếp nói:

- Cho nên huynh lập tức lủi mất, tiện tay hốt luôn Tàng Tượng Kinh và Huyền Binh Giám theo cùng?

- Họ bất nhân, ta bất nghĩa.

Hư Mộ Dương hậm hực:

- Chúng muốn giết ta, dĩ nhiên ta phải chôm đồ chuồn mất. Ta lấy lý do phá tầng thứ hai của đại trận mà chạy xa khỏi bọn chúng, duy chỉ có Hà Xung là người tinh thông trận đạo nhất Thiên thần cung, gã lấy danh nghĩa trợ thủ để giám sát ta nên không thể thoát được. Gã tinh thông thuật truy tìm tung tích, ta mượn cớ chuồn thì gã truy sát không tha, bám dính như cao da chó trên suốt đường từ Mạc Khâu đến Thúy Vi Sơn. Nếu không phải ta dùng hết tâm tư bày Bát Môn Tỏa Thiên Trận, e rằng đã chết ngay tại chỗ.

Nói đến đây, giọng của Hư Mộ Dương cũng trầm hẳn đi.

Tuy Hà Xung bị y đuổi đánh, nhưng sớm muộn gì gã cũng quay lại, hơn nữa chỉ sợ lúc đó không chỉ có một mình gã, mà còn cả đống người.

Y được yên tĩnh ở đây, suy cho cùng sẽ không lâu dài.

- Mà Hư đại ca này, chẳng phải huynh nói người tu tiên có Tâm Ma kiếp, kẻ nào phản bội lời thề thì Tâm Ma sẽ bộc phát phải không? Tại sao họ lại dám làm vậy?

Hư Mộ Dương đáp:

- Tâm nguyện có lớn có nhỏ, Tâm Ma cũng có mạnh có yếu. Khi người tu tiên mới bắt đầu tu hành, bình thường phải xuống tóc thề vì chí nguyện to lớn. Lời nguyện này là mục tiêu cả đời, cũng là theo đuổi của bản tâm, về sau hành sự cũng dựa theo bản tâm này. Mà đại đa số người tu lập chí nguyện thường không nằm ngoài các dạng sau: cầu trường sinh, cầu bất hủ; cầu tung hoành, cầu xưng bá; cầu hành hiệp, cầu trượng nghĩa; cầu tiêu dao, cầu tự tại... Những dạng này đều là chí nguyện lớn, vì chí nguyện lớn mà bỏ chí nguyện nhỏ là chuyện rất bình thường. Cũng giống như ta vì kháng lại nhân quả mà dẫn theo ngươi, nhưng nếu dám cản đường ta, lúc ấy ta có chém chết ngươi thì cũng không vi phạm bản tâm. Cho dù không đành lòng, một chút Tâm Ma nhỏ cũng dễ đối phó hơn là vi phạm Vô Thượng Thiên Ma mà chí nguyện lớn đem tới.

- Ra là vậy, phải chăng chí nguyện chỉ có thể có một? Hay là có thể có nhiều?

Đường Kiếp thắc mắc.

- Vụ này à...

Hư Mộ Dương bị hỏi cũng đơ ra, nghĩ ngợi chút rồi đáp:

- Không nghe nói có hạn chế. Có điều tuy chí nguyện là căn cơ để tu thành Thiên Tâm, nhưng cũng là trợ lực khi tu đạo, chắc cũng không có mấy ai cầu nhiều chí nguyện? Nhưng còn ngươi, nếu ngươi muốn tu thành chánh quả thì phải thề nguyện lập chí, kiến lập tâm cơ. Đây cũng chính là nguyên nhân ta hỏi ngươi vì sao muốn tu tiên, đáng tiếc đáp án ban đầu của ngươi không nằm trong các dạng kể trên. Còn bây giờ, ta hỏi ngươi lần nữa, ngươi tu tiên rốt cuộc là vì thứ gì?

Rốt cuộc là cầu thứ gì?

Vấn đề này khiến Đường Kiếp thấy khó xử.

Nghĩ được một lúc, hắn ngẩng đầu đáp:

- Đệ tu tiên, không cầu nghe thấu thiên hạ, thế nhân kính ngưỡng, cũng không cầu thọ ngang trời đất, trường sinh bất lão. Sinh mạng luôn có sống chết, có thể hết mình khi còn sống thì tốt rồi. Đệ hy vọng tương lai mình có thể đi khắp trời đất, tiêu dao kiếp này, cho nên đệ chỉ cầu...

Đường Kiếp ngập ngừng, cuối cùng nói chắc như đinh đóng cột:

- Thật tiêu dao, thật tự tại!